Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng, Nhà nước, Quân đội về quân sự, quốc phòng; chỉ huy, điều hành Quân đội nhân dân (QĐND) và Dân quân tự vệ; tổ chức, chỉ đạo xây dựng, phát triển LLVT ba thứ quân và các hoạt động quân sự, quốc phòng của đất nước; đồng thời là cơ quan tham mưu, chỉ đạo và trực tiếp tổ chức thực hiện công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (tháng 9-1945), để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triển khai đường lối đối ngoại quốc phòng rộng mở. Đó là, chủ trương giao thiệp thân thiện với quân đội Anh, Trung Hoa Dân quốc dưới danh nghĩa quân Đồng minh đến giải giáp vũ khí quân đội Nhật; đoàn kết chiến đấu với lực lượng cách mạng Lào, Campuchia và quân cách mạng Trung Quốc. Vừa mới ra đời, BTTM chưa có kinh nghiệm đối ngoại nhưng đã chủ động tham mưu giúp Đảng, Nhà nước, Quân đội thực hiện chính sách thân thiện với quân đội các nước Đồng minh; tranh thủ “giao dịch” một số vũ khí, trang bị với quân đội Trung Hoa Dân quốc; đồng thời, cử cán bộ và một số đơn vị vũ trang chiến đấu bên cạnh các lực lượng cách mạng Lào, Campuchia và giúp bộ phận quân du kích cách mạng Trung Quốc sang Việt Nam củng cố lực lượng... góp phần giúp cách mạng Việt Nam tránh tình thế phải đối phó cùng lúc với nhiều kẻ thù; đồng thời, tạo lập quan hệ đoàn kết quốc tế; qua đó, góp phần thể nghiệm chính sách đối ngoại quốc phòng rộng mở của nước Việt Nam mới.
Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn và các chuyên gia Hoa Kỳ tại Lễ khánh thành thao trường huấn luyện vật liệu nổ tại Ba Vì (Hà Nội), ngày 24-3-2025. Ảnh: KHÁNH TOÀN
Từ sau Toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946) cho đến năm 1985, quan hệ đối ngoại nói chung và đối ngoại quân sự, quốc phòng nói riêng của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (từ năm 1976 là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) khá phong phú. Bên cạnh quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc và quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, quan hệ đối ngoại quốc phòng của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn có hoạt động đấu tranh, ký kết và thi hành Hiệp định Geneva về Đông Dương (năm 1954), Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (năm 1973). Nhưng, nhìn tổng thể và xét về thực chất, quan hệ đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng của Việt Nam thời gian này chủ yếu là quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc và các nước trong hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu. Trong thời kỳ đầy gian khó đó của đất nước, BTTM đã có đóng góp to lớn vào việc vun đắp, thúc đẩy quan hệ quân sự, quốc phòng giữa nước ta với các nước bạn phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, thực chất, đưa Việt Nam bước vào thời kỳ “hội nhập quốc tế” đầu tiên, dù còn giới hạn về phạm vi, quy mô. Từ đó, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn từ phong trào giải phóng dân tộc và các nước trong hệ thống XHCN trong những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ).
Trong quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc thế giới, nổi bật nhất là quan hệ với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Quán triệt quan điểm của Đảng “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, “Đông Dương là một chiến trường”, BTTM đã tham mưu, chỉ đạo, điều hành công tác giúp cách mạng các nước bạn xây dựng LLVT, tổ chức phong trào kháng chiến; tổ chức lực lượng Quân tình nguyện, cố vấn, Chuyên gia quân sự Việt Nam (trên đất bạn); đồng thời, tổ chức, chỉ huy phối hợp tác chiến giữa QĐND Việt Nam với LLVT cách mạng các nước bạn... góp phần định hình, phát triển quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu trên thực tế giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Nhờ mối quan hệ đặc biệt đó, trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sự phối hợp chiến đấu giữa LLVT cách mạng 3 nước Đông Dương ngày càng hiệu quả, đẩy địch ngày càng lâm vào bị động, phân tán đối phó. Sự phối hợp giữa các lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp trên chiến trường Đông Dương khiến đối phương phải phân tán lực lượng trên một không gian rộng, đỉnh cao là trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam tập trung lực lượng, giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ (năm 1954). Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng cùng lực lượng tiến bộ Lào, Campuchia đã cho phép chúng ta tạo lập tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn, bảo đảm chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc cho các chiến trường đánh giặc đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975. Trong thời kỳ xây dựng và BVTQ (1975-1985), liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào, từ năm 1979 là liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào-Campuchia, đã góp phần giúp Việt Nam đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá nhiều mặt của các thế lực thù địch và phản động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia.
Trong quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, BTTM là cơ quan trung tâm xây dựng kế hoạch, trực tiếp chỉ đạo, điều hành tiếp nhận, khai thác hiệu quả các nguồn viện trợ. Theo yêu cầu và sự phát triển của cách mạng, hoạt động đối ngoại quân sự ngày càng phát triển cả về phạm vi và quy mô hợp tác. Bên cạnh tham mưu hợp tác và chỉ đạo, điều hành tiếp nhận vật chất phục vụ chiến đấu với số lượng ngày càng lớn, đa dạng về loại hình, chủng loại, BTTM còn góp phần tham mưu và tổ chức tiếp nhận cố vấn, chuyên gia quân sự các nước bạn với phạm vi ngày càng rộng. Nếu như trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ta chỉ tiếp nhận cố vấn quân sự Trung Quốc thì trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, bên cạnh tiếp nhận chuyên gia quân sự Trung Quốc, chúng ta tiếp nhận chuyên gia quân sự đến từ Liên Xô, Ba Lan, Hungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc... Trong đó, tính riêng việc tiếp nhận chuyên gia kỹ thuật, có 5.951 người từ Liên Xô và 1.426 người Trung Quốc(1). Ngoài ra, BTTM đã chủ động tham mưu, đề xuất và trực tiếp tham gia các cuộc thăm hữu nghị, trao đổi kinh nghiệm, tham vấn về các vấn đề quân sự, quốc phòng; đồng thời, đề xuất, cử cán bộ, học sinh, sinh viên đi học tập, đào tạo tại các trường quân sự ở các nước bạn. Nguồn vũ khí, trang bị viện trợ cùng những kinh nghiệm, tri thức khoa học quân sự mà các cố vấn, chuyên gia quân sự các nước bạn giới thiệu đã được QĐND Việt Nam tiếp thu, tiếp nhận, sử dụng và vận dụng sáng tạo, góp phần nâng cao sức mạnh quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Quan hệ quân sự, quốc phòng giữa Việt Nam với các nước trong hệ thống XHCN nhờ đó trở nên sâu sắc hơn.
Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, không ngừng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, đối ngoại quốc phòng được phát triển theo hướng rộng mở, đa phương với các nước có chế độ chính trị khác nhau. Ngay từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, BTTM đã đề xuất thiết lập, phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác quốc phòng với LLVT tất cả các nước có quan hệ ngoại giao với ta trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội, nhưng nhất quán quan điểm mang tính nguyên tắc: “Không đi với nước này để chống một nước khác, không đối đầu, không tiến công ai”(2). Theo đó, QĐND Việt Nam đã tích cực phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng song phương thông qua hình thức trao đổi đoàn các cấp, xúc tiến hợp tác quốc phòng, hợp tác kỹ thuật quân sự; đồng thời, phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng đa phương thông qua tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế, diễn đàn quốc phòng, an ninh khu vực...
Trong phát triển quan hệ quốc phòng song phương, các cuộc trao đổi đoàn, đối thoại về các vấn đề an ninh, quốc phòng với các nước lớn được chú trọng. Từ đầu thế kỷ 21, với sự đổi mới tư duy về đối tác, đối tượng trong BVTQ, quan hệ quốc tế, đối thoại quốc phòng với các nước lớn của Việt Nam được đẩy mạnh và rộng mở hơn. Bắt đầu từ cơ chế tham vấn quốc phòng với Pháp năm 2001; năm 2004, Việt Nam đối thoại quốc phòng với Mỹ, sau đó là Australia. Đặc biệt, từ năm 2007, chủ trương phát triển quan hệ quốc tế về quốc phòng, đối thoại quốc phòng của Việt Nam với các đối tác được nâng lên cấp thứ trưởng. Đến năm 2010, số nước đối thoại quốc phòng cấp thứ trưởng với Việt Nam là 4 nước, gồm Ấn Độ, Singapore, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thời gian này đã diễn ra nhiều cuộc viếng thăm lẫn nhau của các tàu hải quân giữa Việt Nam với các đối tác, trong đó chủ yếu là các chuyến thăm Việt Nam từ phía các đối tác. Tính đến năm 2009, có 46 đoàn gồm 81 lượt tàu với hơn 18.000 lượt sĩ quan, thủy thủ nước ngoài thăm Việt Nam(3).
Về phát triển quan hệ quốc phòng đa phương, Việt Nam đã tích cực tham gia các diễn đàn hợp tác quốc phòng, an ninh khu vực, liên khu vực và toàn cầu, như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh, Hội nghị an ninh quốc tế Moscow, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị Tư lệnh Lục quân các nước ASEAN; trong đó, Việt Nam là thành viên sáng lập ARF, ADMM, ADMM+. Riêng với ADMM+, cơ quan tham mưu chiến lược đã đề xuất với Bộ Quốc phòng các sáng kiến góp phần tổ chức thành công hội nghị lần thứ nhất ở Hà Nội với nhiều nội dung, chương trình hành động được thống nhất; qua đó, thúc đẩy đối thoại, hợp tác quốc phòng giữa ASEAN với các đối tác, nhất là trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống.
Trên các diễn đàn quốc phòng, an ninh khu vực, Việt Nam đã dần chuyển từ tham gia sang chủ động dẫn dắt, định hình luật chơi chung. Trong các kỳ hội nghị ADMM và ADMM+, Việt Nam đã chủ động, tích cực thúc đẩy các sáng kiến, hoạt động hợp tác quốc phòng. BTTM đã đề xuất nhiều sáng kiến, thúc đẩy sự hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN, cũng như giữa ASEAN với các đối tác. Đồng thời, chỉ đạo, tổ chức thành công các cuộc hội thao quân sự quốc tế, diễn tập an ninh phi truyền thống với quân đội các nước, giao lưu quốc tế, triển lãm quốc phòng...
Nhờ nỗ lực mở rộng, phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo cơ sở để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) của Đảng xác định: “... mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực chủ động hội nhập quốc tế” và chủ trương “tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”(4). Tháng 4-2013, trong Nghị quyết 22 về hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị chỉ rõ phải xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập về quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về BVTQ; đẩy mạnh hợp tác quốc phòng song phương và tích cực tham gia đối ngoại quốc phòng đa phương. Thực hiện chủ trương mới của Đảng về lĩnh vực quan trọng này, BTTM nghiên cứu, đề xuất Quân ủy Trung ương (QUTƯ) ban hành Nghị quyết 806 về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo (ngày 31-12-2013). Từ đây, với sự tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn của BTTM, hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Quân đội được triển khai đồng bộ với nhiều cách làm sáng tạo. Đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ với nhiều điểm mới, điểm sáng, hình thức phong phú.
Về quan hệ quốc phòng song phương, đến năm 2023, số nước Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng tăng gần gấp đôi so với năm 2009: Đạt hơn 100 quốc gia, trong đó có đủ 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và các đối tác chiến lược, chủ chốt; Việt Nam đã cử 35 cơ quan tùy viên quốc phòng thường trú và kiêm nhiệm tại 45 nước và một tùy viên quân sự thuộc Phái đoàn đại diện thường trực nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc; có 53 quốc gia có cơ quan tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự thường trú và kiêm nhiệm tại Việt Nam. Hoạt động trao đổi đoàn giữa Việt Nam với các nước cũng tăng gấp nhiều lần so với những năm đầu thế kỷ 21. Nếu như giai đoạn 1990-2006, Việt Nam đón 207 đoàn vào và cử 157 đoàn đến các nước thì giai đoạn 2014-2023, số đoàn vào và ra tương ứng là 1.637 và 2.056(5). Đặc biệt, số lượng đoàn ra trong giai đoạn 2014-2023 là minh chứng rõ ràng về sự chủ động hơn của Việt Nam trong thúc đẩy hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; trong đó, nổi bật là sự phát triển của cơ chế đối thoại chính sách/chiến lược quốc phòng và giao lưu hữu nghị quốc phòng.
Về quan hệ quốc phòng đa phương, trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21, Việt Nam không chỉ tham gia các hoạt động quốc phòng đa phương có tính khu vực mà còn tham gia giữ gìn an ninh toàn cầu khi bắt đầu cử quân nhân tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc vào năm 2014. Tính từ tháng 6-2014 đến nay, Việt Nam đã triển khai thành công gần 1.100 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc theo hình thức cá nhân và đơn vị tại các phái bộ ở Cộng hòa Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và trụ sở Liên hợp quốc.
Phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được, ngày 28-4-2023, Bộ Chính trị ra Kết luận số 53 về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài cao hơn nữa cho sự nghiệp củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Triển khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, BTTM đề xuất QUTƯ ban hành Nghị quyết 2662 về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo (ngày 26-2-2024). Ngay trong năm 2024, với sự tham mưu và chỉ đạo, điều hành của BTTM, Nghị quyết 2662 của QUTƯ về hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đã được tích cực triển khai, đạt nhiều kết quả trên cả bình diện song phương và đa phương, trong đó nổi bật là chuỗi những hoạt động đối ngoại kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đối ngoại quốc phòng đặt ra trong năm, thiết thực chuẩn bị Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Như vậy, 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự chỉ đạo của QUTƯ, điều hành kiên quyết, sáng tạo của Bộ Quốc phòng, BTTM đã có những đóng góp quan trọng vào thành công của công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; qua đó, góp phần từng bước phá vỡ thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch, đưa nước ta hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về quốc phòng nói riêng ngày càng toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Sự hội nhập đó đã mang đến cho Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ quý giá từ bên ngoài; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành vẻ vang mọi mục tiêu cách mạng đặt ra. Đúng như Đảng ta luôn khẳng định, hội nhập quốc tế là một trong những nhân tố góp phần vào mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những thành tựu, đóng góp nổi bật đó của BTTM bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của QUTƯ-Bộ Quốc phòng; từ sự vận dụng sáng tạo truyền thống đối ngoại quốc phòng của cha ông, quan điểm đoàn kết quốc tế của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ sự kiên quyết, sẵn sàng chiến đấu, cống hiến, hy sinh to lớn của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ, nhân viên cơ quan tham mưu chiến lược. Phát huy truyền thống vẻ vang 80 năm qua, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới, BTTM cần tập trung thực hiện tốt một số yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới; các kết luận, chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, QUTƯ, Bộ Quốc phòng, nhất là Nghị quyết 59 ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Kết luận 53 ngày 28-4-2023 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 2662 ngày 26-2-2024 của QUTƯ về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trực tiếp là QUTƯ, sự chỉ đạo, quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Bộ Quốc phòng. Đây là những yêu cầu có tính nguyên tắc, quyết định đến chất lượng, hiệu quả trong tham mưu, chỉ đạo, tổ chức và triển khai thực hiện công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của BTTM. Các cấp ủy, chỉ huy phải thường xuyên quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nắm bắt việc bảo đảm thực hiện những yêu cầu này một cách nghiêm túc, đầy đủ, thực chất.
Hai là, luôn kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, nhận thức đúng đối tác, đối tượng, kết hợp giữa hợp tác và đấu tranh, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Quá trình tham mưu và triển khai thực hiện nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải kiên định chính sách quốc phòng “4 không”, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhưng đồng thời tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước; ứng phó chủ động, hiệu quả trước các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Tham mưu, triển khai nhiệm vụ hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải nhằm tạo thế đan xen lợi ích, củng cố tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác quan trọng và nước bạn truyền thống; phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại quốc phòng là một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tranh thủ tối đa ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo xu thế phát triển của tình hình thế giới, khu vực, sự điều chỉnh chính sách, chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn, nước láng giềng; tham mưu, đề xuất các đối sách, giải pháp tổng thể, lâu dài ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; giải quyết vấn đề biển, đảo, nhất là Biển Đông, tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam. Nghiên cứu, dự báo xu hướng các cuộc xung đột, chiến tranh hiện tại, khả năng chiến tranh lớn trên thế giới. Triển khai toàn diện, đồng bộ chiến lược BVTQ và các nghị quyết, chiến lược, đề án đã ban hành. Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án ứng phó với các tình huống quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới, vùng trời, vùng biển, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Bốn là, chủ động triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương; vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quan điểm của Bộ Quốc phòng về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; bám sát và lấy thực tiễn làm thước đo hiệu quả công tác; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan để nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng; chỉ đạo, chỉ huy, điều hành, quản lý chặt chẽ lực lượng làm công tác đối ngoại quốc phòng, nhất là lực lượng gìn giữ hòa bình làm việc tại các phái bộ của Liên hợp quốc.
Năm là, tiếp tục xây dựng hoàn thiện thể chế và đầu tư nguồn lực cho hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, các văn bản pháp luật đã được ký kết trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, quân sự, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với văn bản pháp luật đối ngoại quốc gia; đồng thời, đề xuất thực hiện “nội luật hóa” các điều ước quốc tế và nghiên cứu hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật đã ký kết trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, quân sự. Tham mưu, chỉ đạo kiện toàn tổ chức biên chế, chức năng, nhiệm vụ và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng toàn quân và các cơ quan, đơn vị của BTTM theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả; tiếp tục đầu tư nguồn lực, ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đủ số lượng, chất lượng cao, chuyên nghiệp, hiện đại, có kiến thức năng lực toàn diện, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và chế độ XHCN. Hoàn thiện cơ chế quản lý, chỉ huy, điều hành, chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên và chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; ưu tiên nguồn lực hợp lý, kết hợp khai thác, tranh thủ các nguồn lực bảo đảm cho hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng.
80 năm qua, cùng với sự trưởng thành trên các mặt công tác khác, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của BTTM có bước phát triển vượt bậc; khẳng định rõ vai trò của cơ quan tham mưu, chỉ đạo, điều hành công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Quân đội, góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và BVTQ. Lịch sử ấy là tài sản vô giá, tạo cơ sở vững chắc cho BTTM tiếp tục vươn lên tầm cao mới trong thực hiện công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng QĐND Việt Nam tinh, gọn, mạnh, hiện đại, BVTQ từ sớm, từ xa trong kỷ nguyên phát triển mới.
Thượng tướng PHÙNG SĨ TẤN, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Bí thư Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu-Cơ quan Bộ Quốc phòng
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.
(1) Bộ Quốc phòng-Cục Đối ngoại, 45 năm Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng (1964-2009), Nhà xuất bản QĐND, H, 2009, tr.142
(2) Bộ Quốc phòng-Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Việt Nam củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, H, 1998, tr.20
(3) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam, 2009, tr.25
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-sự thật, H, 2011, tr.189, 233
(5) Quân ủy Trung ương, Báo cáo số 2661-BC/QUTW ngày 26-2-2024, Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31-12-2013 của QUTƯ về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, tr.5