Ban Giám hiệu Trường THPT Phú Lương đón nhận Cờ thi đua xuất sắc năm học 2024-2025 của UBND tỉnh.
Bàn chật, ngồi thêm, hàng chữ xiên
Bàn chật, ngồi thêm, hàng chữ xiên - đó là câu thơ tôi viết về nơi công tác đầu đời của tôi: Trường cấp 3 Phú Lương, nay là Trường THPT Phú Lương. Ấy là vào tháng 1 năm 1984, tôi với bọc đồ lỉnh kỉnh chằng buộc sau chiếc xe đạp cọc cạch, bàng hoàng đứng nhìn nơi mình sẽ gắn bó.
Phòng hiệu bộ, mấy dãy lớp học đều liêu xiêu vách đất mái lá, sân trường mênh mông cỏ dại. Tôi được nhà trường phân cho nửa căn phòng tập thể, giường cá nhân, bàn gỗ, đó là tất cả gia sản của cô giáo trẻ chan chứa mộng mơ vừa tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm 1 Hà Nội.
Mùa đông năm ấy là mùa đông lạnh nhất với tôi. Trường ở gần núi Đuổm, không rõ vì hơi núi đá, hay vì nỗi cô đơn trống trải, tôi rét run trong tấm chăn bông mỏng, phải đắp thêm mảnh ni lông mới qua được đêm dài. Lần đầu lên lớp, tôi kinh ngạc thấy bàn gỗ lổng chổng sứt sẹo, ghế ngồi là mấy thân tre chằng buộc. Học sinh nhiều em quần manh áo vá, có em chân đất. Có hôm trời mưa, mái lớp thủng nên các em phải ngồi dồn tránh chỗ dột. Câu thơ “bàn chật, ngồi thêm, hàng chữ xiên” của tôi bật ra từ đó.
Khu tập thể tôi ở có khoảng mười thầy cô giáo độc thân. Ngoài giờ lên lớp ai cũng mướt mải đan nón, chụp ảnh, chăm chỉ nhẫn nại làm thêm. Bữa ăn chỉ có đĩa rau lang luộc chấm mắm tôm, thi thoảng thêm con cá mắm vùi than nướng. Giai đoạn đó, đất nước đang ở cuối thời kỳ bao cấp. Chúng tôi được trả phân bón hóa học thay gạo, được trả mắm tôm, đậu phụ thay thịt và được phát mỗi tháng vài lít dầu hỏa thắp đèn soạn giáo án.
Học trò trường tôi dạy chủ yếu con nhà nông. Chúng thể hiện tình cảm với cô giáo bằng cách chặt cả cành hoa ngọc lan vác đến tặng và chào đón cô vào lớp với bài hát cô yêu thích. Người dân quanh chỗ chúng tôi ở, dù có con học ở trường hay không cũng một điều “cô giáo” hai điều “thưa cô”. Các cô giáo trong trường đều nghèo nhưng yêu thương, đùm bọc. Tôi nhớ mãi buổi đi rừng kiếm củi với Huyền (dạy Lý), nó mướt mải chạy về thật nhanh rồi quay lại đỡ bó củi trên vai tôi; rồi lần tôi ốm sốt, anh Lệ (dạy Toán) mang cho bát cháo đầy…
Nhưng vì nhiều lý do riêng, sau 2 năm, tôi rời trường cấp 3 Phú Lương, xa nghề giáo, để từ đó không còn được nghe hai tiếng “thưa cô”.
Gặp lại năm tháng tuổi đôi mươi
Tiết mục văn nghệ của các em học sinh trong Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập trường.
Bốn mươi năm trở lại, tôi định thần mới nhớ ra chỗ kia trước là khu văn phòng, chỗ kia trước là dãy nhà tập thể, chỗ kia trước là khu lớp học. Dấu vết xưa hoàn toàn không còn nữa. Gam màu ảm đạm của mái lá cùn, của tấm áo sờn và nét mặt lo toan thay bằng màu tươi roi rói của hoa, của áo và nụ cười.
Tôi nhao nhác tìm người cũ. Nhiều thầy cô không còn để hưởng niềm vui như chị Bình, chị Mai, anh Việt, anh Bộ…; nhiều người tôi không nhớ tên, nhớ mặt, nhưng khi cất tiếng nói thì bầu trời kỷ niệm lại ùa về. Người còn nhanh nhẹn, người bước chân đã run, nhưng niềm vui ngời trong ánh mắt. Ai cũng muốn lưu lại nhiều kiểu ảnh với hoa, với trò, với thầy cô để nhớ mãi ngày hôm nay rạng rỡ.
Vui lắm chứ, khi nhiều cựu học sinh của trường có chỗ đứng quan trọng trong xã hội như Trung tướng Dương Văn Tính (khóa 1981-1984), Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Công an; như Phó Giáo sư - Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Mai Xuân Trường (khóa 1987-1990), Hiệu trưởng Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Thái Nguyên; Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Xuân Thiện…
Càng vui hơn khi nhìn gương mặt học trò hôm nay: ngời ngợi thông minh, hạnh phúc. Tôi ngắm những lán trại xinh xắn, được các em phối màu, đặt tên rất sinh động. Đón tôi là nụ cười hoa, là “thưa cô” lễ phép, là tự tin chụp ảnh và giao lưu. Sân trường cỏ hoang xưa thấm bao giọt nước mắt của tôi nay trải cỏ xanh, rộn ràng tiếng nhạc, tiếng hát. Tôi ngắm tòa ngang dãy dọc các lớp học cao tầng, đây phòng thí nghiệm, đây nhà đa năng, những cây bàng cổ thụ thả lá vàng mơ mộng lên ghế đá, thầm cảm ơn thời gian mạnh mẽ đổi thay.
Tôi ngắm những gương mặt thầy cô giáo thế hệ đầu tiên, nay gửi trọn niềm tin và tình yêu vào lớp trẻ. Lật giở cuốn sách về nhà trường được các thầy cô làm khá kỳ công, tôi càng hiểu tâm đức của những người đang “chèo lái con thuyền” giáo dục nơi đây. Nhìn vào mắt họ, tôi thấy ánh lên tình yêu nghề giản dị mà bền bỉ, như ngọn lửa được trao truyền từ 60 năm về trước. Tôi bước đi giữa tiếng nhạc rộn ràng, cờ hoa rợp lối, yêu bàn tay nắm chặt, yêu cái ôm ấm nồng.
Tôi chợt nhận ra, người gieo chữ không chỉ truyền tri thức mà còn gieo hạt mầm của tình người, của lòng biết ơn và nếp sống văn hóa. Tôi lặng nghe học sinh hát bài xưa tôi yêu thích: “Trên những nẻo đường của Tổ quốc xinh tươi, có những loài hoa thơm đậm đà sắc hương, có những bài ca nghe rạo rực lòng người, bài ca ấy, loài hoa ấy, đẹp như em, người giáo viên nhân dân…”. Bao công sức, bao tâm huyết của thầy trò qua năm tháng kết tinh thành niềm tự hào hôm nay.
Tôi chỉ có hai năm đứng trên bục giảng, quãng thời gian thật ngắn so với 34 năm công tác với nhiều nẻo đường, nhiều công việc. Nhưng thanh âm đẹp nhất tôi được nghe vẫn là tiếng “thưa cô” vang lên từ tấm lòng trong trẻo của học trò. Nó khiến tôi thấy mình vẫn là một phần của quá khứ, vẫn được nhớ, được gọi bằng tình cảm trong sáng. Hai tiếng “thưa cô” như lời tri ân dịu dàng dành cho người một thời đứng trên bục giảng, là tôi.
Tôi rời ngôi trường xưa trong hơi gió thoảng mùi hoa sữa, nghe tim mình dâng lên niềm biết ơn và hạnh phúc. Cảm ơn thầy và trò Trường THPT Phú Lương đã dành cho tôi khoảnh khắc ấm áp đón người trở về. Tôi không chỉ tìm lại được kỷ niệm, mà tôi còn tìm lại được chính mình và những năm tháng của tuổi đôi mươi quý giá.
Trường THPT Phú Lương thành lập ngày 24/9/1965. Ban đầu trường chỉ có 4 lớp học nằm rải rác trong rừng cọ ở xóm Quyết Tiến, xã Hợp Thành, huyện Phú Lương (Bắc Thái). Đến nay, Trường THPT Phú Lương có 36 lớp, 1.599 học sinh, 93 giáo viên; là địa chỉ giáo dục tin cậy trong ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thái Nguyên.
Minh Hằng