Sáng 16-6, với 100% các đại biểu có mặt biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua dự Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua, 696 đơn vị cấp huyện chính thức kết thúc hoạt động từ 1-7-2025.
Luật quy định đơn vị hành chính của Việt Nam được tổ chức thành 2 cấp, gồm cấp tỉnh (tỉnh, TP trực thuộc Trung ương) và cấp xã (xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh). Chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính, theo quy định của Luật, gồm HĐND và UBND.
Cũng theo quy định của Luật vừa thông qua, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là địa bàn có vị trí chiến lược, được tổ chức theo mô hình đặc thù, được áp dụng các cơ chế chính sách ưu đãi vượt trội, thực hiện các chính sách mới về quản trị địa phương, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vùng và cả nước. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sẽ do Quốc hội quyết định thành lập.
Các đại biểu biểu quyết thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi. Ảnh: PHẠM THẮNG
Chủ tịch UBND cấp xã được ủy quyền cho công chức
Tại Luật sửa đổi lần này, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung các quy định về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền.
Về phân định thẩm quyền, Luật nêu rõ nguyên tắc là đẩy mạnh phân quyền, phân cấp các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước ở trung ương cho chính quyền địa phương; phân định rõ giữa thẩm quyền của UBND và thẩm quyền của chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp xã. Đặc biệt là bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức thuộc chính quyền địa phương.
Việc phân quyền, phân cấp, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, các cơ quan của chính quyền địa phương tại các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với quy định tại Luật này, bảo đảm quyền lực nhà nước được kiểm soát hiệu quả.
“Trường hợp cần thiết, UBND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp mình, UBND, Chủ tịch UBND cấp xã, không để việc giải quyết công việc, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp bị đình trệ, ùn tắc, kém hiệu quả”- Luật vừa được sửa đổi nêu rõ.
Về phân quyền, Luật sửa đổi nhấn mạnh chính quyền địa phương tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; được phân cấp, ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền theo quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội quy định không được phân cấp, ủy quyền.
UBND cấp tỉnh được đề xuất với Chính phủ đề nghị Quốc hội phân quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương. Chính phủ có trách nhiệm xem xét, giải quyết đề xuất của UBND cấp tỉnh; trường hợp không đồng ý thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Về phân cấp, UBND cấp tỉnh, chủ tịch UBND cấp tỉnh phân cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý thực hiện liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ mà mình được giao theo quy định của pháp luật. Quy định nhằm tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản trị đơn vị và cung ứng dịch vụ công, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp.
Việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan, cá nhân phân cấp. Cơ quan, cá nhân phân cấp chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được phân cấp có đề nghị và tự bảo đảm điều kiện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp.
UBND cấp tỉnh được đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phân cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương được đề xuất với HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh, chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc phân cấp cho mình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng nếu đáp ứng các yêu cầu về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác.
Về ủy quyền, Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi quy định UBND ủy quyền cho chủ tịch UBND, người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp mình hoặc UBND, chủ tịch UBND cấp dưới.
Chủ tịch UBND ủy quyền cho người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp mình hoặc Chủ tịch UBND cấp dưới; người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh ủy quyền cho UBND, Chủ tịch UBND cấp xã.
Chủ tịch UBND cấp xã ủy quyền cho công chức thuộc UBND cấp mình thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được giao theo quy định của pháp luật trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể, trừ trường hợp pháp luật quy định không được ủy quyền…
Ngoài ra, Luật cũng quy định công chức thuộc UBND cấp xã được chủ tịch UBND cấp xã ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn và được giao ký thừa ủy quyền thì được sử dụng con dấu của UBND cấp xã.
HĐND cấp tỉnh quy định chi tiết phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được ủy quyền cho công chức thuộc UBND cấp xã.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà. Ảnh: PHẠM THẮNG
HĐND và chủ tịch UBND cấp tỉnh được trao quyền phân cấp
Trình bày báo cáo giải trình, chỉnh lý, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho hay việc phân định rõ thẩm quyền giữa tập thể UBND và cá nhân chủ tịch UBND nhằm tạo điều kiện thực hiện cơ chế điều hành linh hoạt, hiệu quả, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý, bổ sung hoàn thiện các quy định về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp và ủy quyền.
Cụ thể, bổ sung chủ thể phân cấp là HĐND và chủ tịch UBND cấp tỉnh; bổ sung cơ chế theo dõi, đánh giá và giám sát để điều chỉnh kịp thời các nội dung phân quyền, phân cấp. Đáng chú ý là trao quyền cho chủ tịch UBND cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc cấp mình và của UBND, chủ tịch UBND cấp xã, không để việc giải quyết công việc, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp bị đình trệ, ùn tắc, kém hiệu quả.
Dự thảo Luật cũng thiết kế lại toàn diện nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã), bảo đảm phân định rõ, không trùng lắp, chồng chéo về nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp chính quyền, phù hợp với mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Trong đó, Chính phủ đã rà soát, chỉnh lý các điều quy định về chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã. Cụ thể, điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cho chủ tịch UBND (UBND tỉnh có 12 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn; chủ tịch UBND tỉnh có 23 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn; UBND xã có 10 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn; Chủ tịch UBND xã có 17 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn).
Bổ sung quy định chủ tịch UBND được quyết định các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND (trừ những nội dung theo yêu cầu phải thảo luận tập thể UBND) và báo cáo UBND tại phiên họp UBND gần nhất.
“Đây là một bước cải cách mạnh mẽ nhằm đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, tạo động lực đổi mới trong quản trị địa phương. Các quy định này của Luật sẽ bảo đảm phát huy sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt, nâng cao hơn trách nhiệm của Chủ tịch UBND, hiệu lực, hiệu quả điều hành, quản lý hành chính nhà nước ở địa phương phù hợp với yêu cầu thực tiễn” – theo bà Trà.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh để kịp thời xử lý những tình huống phát sinh, đột xuất mà chưa có trong quy định của pháp luật, Luật đã thiết lập cơ chế linh hoạt, chủ động theo hướng cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, HĐND, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, ban hành văn bản hoặc ủy quyền ban hành văn bản để giải quyết các vấn đề phát sinh khi tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp xã theo quy định tại Luật này.
NHÓM PHÓNG VIÊN