GS. Huỳnh Văn Sơn. (Ảnh NVCC)
Nhận diện rõ và có lộ trình tháo gỡ các điểm nghẽn
Nghị quyết 71 được xem là văn kiện mang tính đột phá, toàn diện và chiến lược cho ngành Giáo dục. Ông nhìn nhận như thế nào về ý nghĩa chính trị - xã hội của nghị quyết này trong việc khẳng định quyết tâm đưa giáo dục đào tạo thành động lực then chốt cho phát triển quốc gia?
Nghị quyết 71 không đơn thuần là một văn bản hoạch định chính sách, mà thực sự là một tuyên ngôn chính trị mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm đổi mới căn bản, toàn diện và sâu sắc hệ thống giáo dục quốc gia.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực và hội nhập, nghị quyết này thể hiện sự nhất quán trong chủ trương coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Các quan điểm chỉ đạo cho thấy sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại, bảo đảm các tôn chỉ cũng như triết lý giáo dục của nước ta. Không những thế, nghị quyết còn thể hiện các định hướng cập nhật, tạo ra các chủ trương lớn để hoạch định việc phát triển giáo dục theo hướng đột phá trong bối cảnh mới.
Ý nghĩa chính trị còn thể hiện sâu sắc khi các mục tiêu về giáo dục được xác định vừa có tầm nhìn, vừa có thể định lượng cho thấy sự mạnh mẽ trong tư duy và sự bao quát. Các mục tiêu định hướng đến năm 2035 và tầm nhìn đến 2045 cho thấy việc dự báo và kỳ vọng cũng được quan tâm một cách hệ thống, bài bản. Về mặt xã hội, đây là lời hiệu triệu kịp thời để khơi dậy niềm tin, củng cố khát vọng học tập và phát triển bền vững trong cộng đồng.
Nghị quyết xác lập mục tiêu Việt Nam nằm trong top 50 quốc gia có chất lượng giáo dục cao vào năm 2030. Đó không chỉ là kỳ vọng mà là cam kết hành động chiến lược, với tầm nhìn vượt khỏi tư duy nhiệm kỳ. Sự đột phá về thể chế, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế cũng là những minh chứng cho tầm vóc của nghị quyết trong việc đưa giáo dục trở thành động lực then chốt cho phát triển quốc gia trong thế kỷ XXI.
Một trong những điểm nhấn của Nghị quyết 71 là gỡ các “nút thắt” tồn tại lâu nay trong hệ thống giáo dục. Theo ông, đâu là những “điểm nghẽn” lớn nhất mà nghị quyết sẽ tháo gỡ, điều đó sẽ mở ra vận hội mới thế nào cho ngành Giáo dục Việt Nam?
Một trong những giá trị nổi bật của Nghị quyết 71 là nhận diện rõ và có lộ trình tháo gỡ các “nút thắt” tồn tại kéo dài trong giáo dục Việt Nam. Với 8 nhiệm vụ, giải pháp và 6 quan điểm chỉ đạo có thể nói các điểm nghẽn đều được quan tâm, tiếp cận hệ thống và đúng tiêu điểm để “định vị” đúng; “xử lý” sát, “kê toa” hiệu quả.
Cũng cần khẳng định thêm là trong hệ thống giáo dục nào cũng có những điểm cần được quan tâm khi vận hành, nhưng tiếp nối những thành công của việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế"; cũng như các thành tựu, kết quả đã đạt được thì việc “tầm soát”, “làm rõ” hay “bắt mạch” đúng các điểm nghẽn là bước đi rất có giá trị, mang ý nghĩa lớn lao.
"Những đổi mới trong giáo dục không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập, mà còn tạo cơ sở để hình thành thế hệ công dân toàn cầu mang bản sắc Việt Nam sẵn sàng làm việc, làm việc đạt hiệu quả cao, không ngại cạnh tranh, sẵn sàng đổi mới, sáng tạo".
Có thể kể đến ba điểm nghẽn cần quan tâm, đó là: Thể chế chưa đồng bộ, chất lượng đội ngũ chưa đồng đều, và tư duy quản lý giáo dục còn nặng tính hành chính. Thể chế pháp lý còn chồng chéo khiến việc triển khai các đổi mới thường xuyên bị đứt gãy; chất lượng đội ngũ giáo viên - nhất là ở vùng sâu vùng xa còn thiếu hụt cả về chuyên môn lẫn điều kiện làm việc. Trong khi đó, quản lý giáo dục chưa theo kịp yêu cầu chuyển đổi số và tự chủ là tồn tại cần giải quyết.
Nghị quyết 71 với các định hướng cải cách luật pháp, phân cấp mạnh mẽ, đầu tư trọng điểm cho đội ngũ nhà giáo sẽ mở ra không gian phát triển mới: Một hệ thống giáo dục linh hoạt, hiện đại và nhân văn hơn. Khi điểm nghẽn được tháo gỡ, vận hội phát triển không chỉ đến với ngành mà còn đến với từng người học, từng gia đình và toàn xã hội.
Giáo viên không chỉ là người dạy kiến thức, mà cần trở thành người dẫn dắt, người truyền cảm hứng và người đồng hành phát triển nhân cách. (Ảnh: Vũ Minh Hiền)
Nghị quyết 71 đã định hình rõ những xu hướng và định hướng chính sách cho giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới. Ông có thể phân tích những điểm mới nổi bật nhất, đặc biệt trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng hội nhập và sáng tạo?
Nghị quyết 71 khẳng định bước chuyển mạnh từ giáo dục truyền thụ sang giáo dục phát triển toàn diện con người, đề cao năng lực tự học, tư duy phản biện và khả năng sáng tạo. Một điểm mới đặc biệt đáng chú ý là việc đề cao giáo dục mở – linh hoạt – hội nhập, với định hướng xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Ngoài ra, chuyển đổi số trong giáo dục không còn là khẩu hiệu mà đã trở thành chiến lược và giải pháp xuyên suốt, từ quản lý đến dạy học, từ học liệu, ngữ liệu đến đánh giá. Việc nhấn mạnh đến năng lực số, trí tuệ nhân tạo, kỹ năng toàn cầu đã đưa tầm nhìn giáo dục Việt Nam tiếp cận sát hơn với chuẩn quốc tế cũng như xác định có “trọng điểm” về cách hội nhập, cạnh tranh trực diện.
"Trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa, điều quan trọng không chỉ là 'biết nhiều', mà là hiểu và thực hành cách sống đúng, hiểu cách tự học và học để nâng tầm bản thân, hành động đích thực để giữ vững giá trị Việt Nam trong thế giới đa chiều".
Mặt khác, Nghị quyết cũng yêu cầu đổi mới mạnh mẽ cách đánh giá học sinh: Từ chú trọng điểm số sang chú trọng quá trình phát triển năng lực cá nhân. Cùng với đó, ở nhiệm vụ - giải pháp 6 khi đề cập trực tiếp đến giáo dục nghề nghiệp phải tiếp tục cải cách và hiện đại hóa cũng như tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao cho thấy việc đặt hàng về kỹ năng, năng lực nghề trở thành điểm đến quan trọng.
Những đổi mới đó không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập, mà còn tạo cơ sở để hình thành thế hệ công dân toàn cầu mang bản sắc Việt Nam sẵn sàng làm việc, làm việc đạt hiệu quả cao, không ngại cạnh tranh, sẵn sàng đổi mới, sáng tạo.
Nuôi dưỡng nhân cách, bản lĩnh cho thế hệ trẻ
Để biến tinh thần và nội dung nghị quyết thành hiện thực, vai trò của đội ngũ nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, cũng như cộng đồng xã hội cần được phát huy như thế nào, theo ông?
Để hiện thực hóa Nghị quyết 71, sự vào cuộc đồng bộ là điều kiện tiên quyết, nhưng trung tâm vẫn là đội ngũ nhà giáo và nhà quản lý giáo dục. Giáo viên không chỉ là người dạy kiến thức, mà cần trở thành người dẫn dắt, người truyền cảm hứng và người đồng hành phát triển nhân cách.
Ngay ở nhiệm vụ - giải pháp 1, vấn đề nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ được đặt ở vị trí đầu tiên. Như vậy, hơn ai hết, từng nhà giáo, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, các chuyên gia phải đi đầu và quyết liệt thực thi bằng những hệ thống giải pháp – biện pháp đảm bảo cơ sở pháp lý cũng như hành động thực tiễn sao cho đúng hướng và trúng đích. Hay ở nhiệm vụ - giải pháp 5 về tập trung xây dựng lực lượng nhà giáo, cơ sở vật chất cho thấy con người luôn được quan tâm nhưng phải là con người làm việc, tư duy khi làm việc và sáng tạo khi làm việc.
"Nghị quyết 71 không chỉ hướng đến đào tạo người giỏi tri thức, mà còn tạo ra môi trường để nuôi dưỡng nhân cách, bản lĩnh và tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ".
Điều này đòi hỏi chính sách đào tạo - bồi dưỡng - đãi ngộ phải thực chất, vượt khỏi hình thức. Với nhà quản lý giáo dục, cần chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị chuyên nghiệp, linh hoạt, coi người học là trung tâm và coi đổi mới là động lực.
Về phía xã hội, vai trò của phụ huynh, doanh nghiệp, các tổ chức cộng đồng cần được huy động thông qua hệ sinh thái giáo dục mở. Giáo dục không còn là nhiệm vụ riêng của ngành, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa hiện nay.
Khi các chính sách đặc thù và đủ mạnh để tập trung sức mạnh của toàn cộng đồng và có các quỹ tài trợ, các hợp tác quốc tế và hội nhập sâu rộng với các chuyên gia trong, ngoài nước và sự hết lòng, hết sức của toàn cộng đồng, sức mạnh của giáo dục sẽ tăng lên nhiều lần khi đó là công cuộc của toàn dân, toàn xã hội, cộng đồng. Chúng ta có sự phân vai, phân nhiệm nhưng cùng đóng góp và cùng chung tay, thì từng điểm nghẽn hay nút thắt đều được tháo gỡ khi tiếp cận.
Giáo dục không còn là nhiệm vụ riêng của ngành, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. (Ảnh: Minh Hiền)
Với tư cách là nhà quản lý giáo dục, vừa là chuyên gia tâm lý, ông kỳ vọng gì ở Nghị quyết 71 trong việc nuôi dưỡng con người Việt Nam toàn diện, không chỉ giỏi tri thức mà còn giàu nhân cách, bản lĩnh và tinh thần dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số?
Tôi cho rằng, Nghị quyết 71 sẽ được quán triệt hoặc được hướng dẫn triển khai. Vì vậy, từng người sẽ hiểu nhiều hơn về tinh thần của Nghị quyết cũng như “làm chủ” các hướng dẫn sau Nghị quyết.
Ở góc độ cá nhân, nuôi dưỡng con người Việt Nam toàn diện, không chỉ giỏi tri thức mà còn giàu nhân cách, bản lĩnh và tinh thần dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số là khát vọng của từng người, của từng phụ huynh, từng thầy cô giáo, người quản lý và thậm chí là của từng người Việt Nam bình dị. Đó không chỉ là lương tâm mà còn là trách nhiệm, là nhiệm vụ.
Chúng ta có thể kỳ vọng vào việc Nghị quyết 71 không những hướng đến đào tạo người giỏi tri thức, mà còn tạo ra môi trường để nuôi dưỡng nhân cách, bản lĩnh và tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ. Trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa, điều quan trọng không chỉ là “biết nhiều”, mà là hiểu và thực hành cách sống đúng, hiểu cách tự học và học để nâng tầm bản thân, hiểu và hành động đích thực để giữ vững giá trị Việt Nam trong thế giới đa chiều; hiểu để biết ta đang ở đâu và quyết liệt bằng kế hoạch cụ thể có “đầu ra” trong kết quả hành động để thay đổi, phát triển liên tục.
Việc nhấn mạnh đến kỹ năng mềm, giáo dục cảm xúc - xã hội, giáo dục giá trị và công dân toàn cầu là những tín hiệu rất tích cực để chúng ta vừa khẳng định bản sắc nhưng vẫn vững vàng, tự tin và đa sắc để hòa nhập toàn cầu. Có thể kỳ vọng, Giáo dục Việt Nam sẽ không còn nặng về thi cử, mà sẽ chuyển sang “giáo dục khai phóng”, nơi mỗi học sinh được phát triển toàn diện: Có trí tuệ, có lòng nhân, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
Ngoài ra, việc bảo đảm an ninh văn hóa trong giáo dục có yếu tố nước ngoài nói chung cùng với việc khuyến khích, hỗ trợ mở phân hiệu, văn phòng đại diện để triển khai các chương trình giáo dục Việt Nam ở nước ngoài, mở rộng dạy tiếng Việt ở nước ngoài cho thấy sự đổi mới rõ theo hướng phát triển, lan tỏa có chiến lược, có điểm rơi… Tất cả điều đó góp phần dựng xây tạo nên nền tảng cho một quốc gia phát triển bền vững, không bị hòa tan trong thế giới phẳng.
Bảo Thoa