Tiên phong sản xuất vật liệu xanh
Ngày 13/10, Saint-Gobain Việt Nam công bố ứng dụng thành công nhiên liệu sinh khối (biomass) vào sản xuất tấm xi măng xanh DURAflex Low Carbon, giúp giảm 74% phát thải CO2/m2 sản phẩm.
Nhà máy Hiệp Phú - VICO, Saint-Gobain Việt Nam hướng tới phát triển mô hình nhà máy đạt trung hòa carbon đầu tiên trong ngành vật liệu xây dựng Việt Nam.
Ông Nguyễn Trường Hải, Tổng giám đốc Saint-Gobain Việt Nam cho biết, Saint-Gobain Việt Nam hướng tới phát triển mô hình nhà máy đạt trung hòa carbon (không phát thải CO2) đầu tiên trong ngành vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam và khu vực Đông Nam Á...
Tương tự, INSEE Việt Nam tiên phong cung cấp VLXD xanh, với danh mục sản phẩm xi măng đạt chứng nhận Green Label của Hội đồng công trình xanh Singapore và Chứng nhận EPD quốc tế (tuyên bố sản phẩm môi trường về tác động môi trường của một sản phẩm xuyên suốt vòng đời của nó), với mức phát thải CO2 thấp hơn 17 - 51% so với xi măng truyền thống.
Là đơn vị sản xuất gạch ốp lát lâu năm, Công ty CP Thắng Cường chủ động chuyển đổi sản xuất xanh, đầu tư dây chuyền công nghệ Sacmi (Italia) tích hợp lò nung tiết kiệm năng lượng, hệ thống thu hồi nhiệt và điều khiển tự động, giúp giảm 15 - 20% lượng phát thải CO2.
Ông Lê Văn Phương, Tổng giám đốc Công ty CP Thắng Cường cho biết: "Chúng tôi không xem việc đáp ứng tiêu chuẩn xanh là nghĩa vụ, mà còn là lợi thế cạnh tranh bền vững, nâng tầm thương hiệu. Công ty đặt mục tiêu đạt netzero nội bộ vào năm 2035".
Tổng giám đốc Saint-Gobain Việt Nam cam kết Saint-Gobain giảm 33% lượng phát thải CO2 vào năm 2030; hướng tới trung hòa carbon toàn bộ chuỗi vận hành vào năm 2050.
Chi phí cao, khó tiêu thụ nội địa
Dù có nhiều lợi thế, song ông Lê Văn Phương cho biết: Chi phí đầu tư công nghệ xanh còn cao, trong khi cơ chế hỗ trợ chưa rõ ràng. Nguồn nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế trong nước còn hạn chế, phải nhập khẩu từ EU hoặc Nhật Bản.
Theo ông Nguyễn Thanh Dũng, Trưởng phòng Xây dựng bền vững INSEE Việt Nam, thách thức lớn nhất là yếu tố chi phí, tiêu chuẩn và nhận thức thị trường.
"Chi phí đầu tư công nghệ, nghiên cứu và chứng nhận quốc tế về sản phẩm xanh rất cao, trong khi khung tiêu chuẩn trong nước chưa thống nhất, khiến việc đánh giá giá trị môi trường của sản phẩm còn khó khăn", ông Dũng nói và cho rằng, nhiều chủ đầu tư vẫn ưu tiên yếu tố giá ngắn hạn, thay vì hiệu quả bền vững dài hạn.
TS Thái Duy Sâm, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội VLXD Việt Nam nhận định, khó khăn nhất là tiêu thụ nội địa. Giá thành cao và nhận thức người tiêu dùng hạn chế, khiến vật liệu xanh chủ yếu phục vụ các dự án lớn, thay vì thị trường phổ thông.
"Dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách phát triển VLXD xanh, song thiếu tiêu chuẩn rõ ràng và công nghệ lạc hậu là rào cản", ông Sâm nhấn mạnh.
Cần nhiều cơ chế hỗ trợ
Theo ông Nguyễn Trường Hải, để hiện thực hóa cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 20250 của Việt Nam tại COP 26, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra "lực đẩy", trong đó có phát triển VLXD xanh.
Việc thay thế nhiên liệu biomass trong dây chuyền sản xuất DURAflex Low Carbon giúp nhà máy Hiệp Phú -VICO giảm hơn 74% phát thải CO₂/m² sản phẩm.
"Chính phủ cần sớm chuyển trạng thái "tự nguyện" sang "quy định" về minh bạch dữ liệu carbon trên từng sản phẩm VLXD được sử dụng cho công trình cao tầng, công trình có vốn công", ông Hải đề xuất.
Đồng thời, xem xét dán nhãn carbon bắt buộc cho VLXD, sớm ban hành chính sách tài chính xanh và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ giảm phát thải trực tiếp (phạm vi 1) và giảm phát thải gián tiếp (phạm vi 2), tạo ra các sản phẩm low carbon.
Đồng quan điểm, ông Dũng cho rằng, cần sự đồng hành giữa doanh nghiệp - Nhà nước - thị trường. Cùng đó, xây dựng bộ tiêu chí quốc gia cho VLXD phát thải thấp, làm căn cứ đánh giá, chứng nhận và định hướng đầu tư.
Nhà nước cũng nên thúc đẩy cơ chế "mua sắm công xanh", có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp giảm phát thải. Đây là đòn bẩy quan trọng để khuyến khích đổi mới sáng tạo và nhân rộng mô hình sản xuất xanh trong ngành VLXD.
Theo TS Thái Duy Sâm, cần cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa ba yếu tố: Hệ thống chính sách quản lý mang tính định hướng và tạo động lực; sự chủ động của doanh nghiệp trong cải tiến sản phẩm và ứng dụng công nghệ phù hợp; nâng cao nhận thức của thị trường và hoàn thiện khung pháp lý...
Ông Nguyễn Quang Hiệp, Viện trưởng Viện VLXD (Bộ Xây dựng) khẳng định: "Tối ưu hóa năng lượng và vật liệu là chìa khóa để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Việc liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong xây dựng xanh tại Việt Nam".
Tại Tuần lễ Công trình xanh, Giao thông xanh 2025, PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và VLXD nhận định: Chủng loại vật liệu xanh chưa đa dạng. Cần dán nhãn năng lượng cho vật liệu xanh để phân biệt với vật liệu thông thường. Bộ Xây dựng đang nghiên cứu, xây dựng văn bản dưới luật nhằm thực thi dán nhãn năng lượng cho VLXD trong thời gian tới.
Tâm Hào Mạnh