Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý vào Dự thảo Đề nghị xây dựng Luật Thương mại điện tử, do Bộ Công thương xây dựng.
"Bỏ ngỏ" quyền và lợi ích của người bán hàng
Góp ý cụ thể vào nội dung, VCCI nhấn mạnh việc bảo vệ người kinh doanh nhỏ lẻ trên nền tảng thương mại điện tử (TMĐT).
Theo VCCI, khác so với thị trường truyền thống, TMĐT có mối quan hệ phức tạp hơn với sự đan xen tương tác lẫn nhau của các chủ thể: người bán hàng hóa dịch vụ - sàn TMĐT - người tiêu dùng - các chủ thể khác (bên vận chuyển, thanh toán…).
Song, pháp luật TMĐT hiện nay tập trung chủ yếu vào các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tương ứng với đó là trách nhiệm của người bán và sàn TMĐT.
Trong khi đó, pháp luật dường như lại "bỏ ngỏ" quyền và lợi ích của một chủ thể quan trọng khác là người bán hàng hóa dịch vụ.
Doanh số của 5 sàn TMĐT hàng hóa phổ biến năm 2024 đạt 318.900 tỷ đồng (Ảnh minh họa).
Hiện nay, có tới 61% người dùng internet cho biết sàn TMĐT là kênh mua sắm trực tuyến ưa chuộng. Về phía người bán, năm 2024 có 650.000 gian hàng trực tuyến trên các sàn TMĐT có phát sinh đơn hàng trên TMĐT. Doanh số của 5 sàn TMĐT hàng hóa phổ biến năm 2024 đạt 318.900 tỷ đồng.
VCCI cho rằng, sự phát triển này cho phép các nền tảng nắm giữ nhiều lợi thế quan trọng mà có thể tạo ra sự chênh lệch đáng kể về quyền lực trong quan hệ TMĐT.
Theo đó, người bán có thể gặp khó khăn trong việc chuyển đổi kênh bán hàng khi chỉ một số ít nền tảng lớn và thói quen mua sắm của người tiêu dùng đã được định hình.
Trong khi đó, người bán trên các sàn TMĐT phần lớn là hộ, cá nhân kinh doanh nhỏ. Không giống với mối quan hệ giữa các thương nhân theo Luật Thương mại - nơi các bên có thể tự do thỏa thuận và đạt được sự bình đẳng trong giao dịch, người bán nhỏ lẻ trên TMĐT thường ở vị thế yếu hơn nhiều so với các nền tảng TMĐT.
"Họ có thể dễ bị áp đặt các chính sách bất lợi và mất khả năng thương lượng, như thay đổi điều khoản đột ngột, bị đình chỉ hoặc cấm mà không có lý do rõ ràng, hạn chế tiếp cận dữ liệu…", VCCI nhận định, các hành vi này có thể ảnh hưởng bất lợi với cá nhân kinh doanh nhỏ, đưa vào vào tình thế bị động và dần "bào mòn" sức khỏe và nhiệt huyết kinh doanh của họ.
Thực tế, nghiên cứu của Ủy ban châu Âu cho thấy, 46% doanh nghiệp trên thị trường EU sử dụng nền tảng trực tuyến gặp phải các vấn đề trong quan hệ thương mại với nền tảng, trong số đó, 21% cho biết các vấn đề xảy ra thường xuyên. Những doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nền tảng (chiếm hơn 50% doanh thu từ nền tảng) có khả năng gặp vấn đề cao hơn đáng kể (75%) và thường xuyên hơn (33%). Thiệt hại kinh tế ước tính từ 2 đến 19,5 tỷ Euro mỗi năm.
"Về hệ thống pháp luật hiện tại, Luật Cạnh tranh 2020 đã tạo ra hành lang pháp lý để xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Đây là cơ chế rất tốt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, các hành vi bất lợi kể trên có thể diễn ra mà không cần có thỏa thuận hay ở vị trí thống lĩnh. Đây là "khoảng hở" giữa pháp luật cạnh tranh và thực tiễn hoạt động TMĐT", VCCI nêu.
Kiểm soát hàng hóa cấm thế nào?
Tại dự thảo Đề nghị xây dựng Luật TMĐT, Bộ Công thương đưa ra quy định về danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu qua TMĐT. Mục đích của quy định là nhằm kiểm soát các loại hàng hóa có thể gây hại cho an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng và môi trường của Việt Nam.
Tuy nhiên, VCCI cho rằng, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tránh vi phạm các cam kết quốc tế của Việt Nam, cơ quan soạn thảo nên tiếp cận theo hướng quy định danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu. Bởi đây là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Theo đó, cá nhân và doanh nghiệp được phép thực hiện mọi hoạt động mà pháp luật không cấm, bao gồm cả hoạt động xuất nhập khẩu.
VCCI cũng góp ý cắt giảm thủ tục hành chính và đẩy mạnh hoạt động hậu kiểm.
Theo VCCI, hiện các nền tảng TMĐT có vốn đầu tư nước ngoài thành lập pháp nhân tại Việt Nam cần xin nhiều giấy phép chỉ để thực hiện hoạt động TMĐT.
Một là giấy phép thiết lập website cung cấp dịch vụ TMĐT (đăng ký với Bộ Công thương) theo Nghị định 52. Hai là giấy phép kinh doanh (với Sở Công thương) theo Nghị định 09 năm 2018.
VCCI viện dẫn phản ánh của doanh nghiệp cho thấy, giấy phép kinh doanh rất khó xin vì đây bản chất là một biện pháp bảo hộ thị trường nội địa khi Việt Nam gia nhập các hiệp định thương mại tự do. Tuy nhiên, giấy phép kinh doanh này lại không áp dụng với các nền tảng TMĐT xuyên biên giới, trong khi các nền tảng này có vốn 100% nước ngoài.
"Việc này tạo ra sự phân biệt giữa sàn TMĐT thành lập trong nước với sàn TMĐT xuyên biên giới, từ đó tạo ra sự bất bình đẳng về môi trường kinh doanh. Vô hình trung, điều này tạo ra sự bảo hộ ngược với ngành TMĐT, mà về lâu dài có thể khuyến khích các nhà đầu tư không tham gia đầu tư trực tiếp tại Việt Nam", VCCI phân tích và đề nghị, cơ quan soạn thảo bổ sung chính sách đảm bảo bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động TMĐT.
Hiện, hoạt động thương mại điện tử được thực hiện theo các quy định của Nghị định 52 năm 2013 và Nghị định 85 năm 2021 (sửa đổi, bổ sung Nghị định 52).
Tuy nhiên, do hai văn bản trên ở cấp nghị định nên chưa đủ để điều chỉnh các vấn đề quan trọng trong thương mại điện tử (TMĐT). Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh mới, đa dạng về mặt chủ thể, phức tạp về mặt bản chất và từ thực tiễn quản lý Nhà nước trong lĩnh vực TMĐT, dẫn đến các chính sách, quy định về TMĐT đã bộc lộ một số tồn tại.
Do đó, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử (nâng cấp từ nghị định) là cần thiết. VCCI đồng tình, song yêu cầu, cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đặc biệt làm rõ trong mối tương quan với các luật khác để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống pháp luật.
Hồng Hạnh