Về câu tục ngữ 'Chiêm khê mùa thối'

Về câu tục ngữ 'Chiêm khê mùa thối'
15 giờ trướcBài gốc
Tuy nhiên, với nhà biên soạn từ điển, câu tục ngữ thông dụng trên đây lại bị giảng sai. Đó là trường hợp cuốn Từ điển tục ngữ Việt (Nguyễn Đức Dương - NXB Tổng hợp TPHCM - 2010). Sách này giải thích Chiêm khê mùa thối là: “(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối”.
Mới đọc nội dung diễn giải trên đây, cứ ngỡ tác giả Từ điển tục ngữ Việt hiểu đúng. Tuy nhiên, đọc tiếp đến chỗ giải nghĩa từ, lại thấy rằng, tác giả đã hiểu sai. Cụ thể, từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích là “(Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”; còn chữ “thối” nghĩa là “(Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất)”.
Giải thích như vậy là không hiểu gì về “khê” và “thối”.
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê” (Ải thâm không bằng dầm ngấu). Còn nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được?
Thực ra, câu tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu. Vụ chiêm (gắn với mùa khô) gieo cấy ở miền Bắc Việt Nam vào tháng mười, tháng mười một, và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu). Vì chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Còn vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) gieo cấy vào tháng năm, tháng sáu, thu hoạch vào cuối mùa mưa hay đầu mùa khô (tháng mười, tháng mười một). Xưa kia, hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như Nguyễn Đức Dương giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Do không chủ động được tưới tiêu, nên xưa kia, có chân đất chỉ cấy được một vụ:
Nơi sâu em để cấy chiêm
Nơi nào cao ráo thì em cấy mùa
Chớ tham những ruộng hai mùa
Chiêm se ré rụi, ăn thua nỗi gì.
(Ca dao)
Trong bài thơ Anh chủ nhiệm, Hoàng Trung Thông cũng đã từng viết về nỗi khó khăn, vất vả của đồng đất Chiêm khê mùa thối này:
Có mùa mạ cháy đồng khô cạn
Mười bậc nước leo lên ruộng hạn
Có mùa lúa chín lụt tràn qua
Lại phải nghiêng đồng hắt nước ra.
Thực ra, câu tục ngữ Chiêm khê, mùa thối chỉ là cách nói hình tượng hơn câu Chiêm khô; mùa úng mà chính tác giả Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng (Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, soạn giả đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn, thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.
Mẫn Nông (CTV)
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/ve-cau-tuc-ngu-chiem-khe-mua-thoi-37727.htm