Trong “Truyện Tây Bắc” hay “Miền Tây”, Tô Hoài đã phác họa một Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa nên thơ. Những dãy núi thâm nghiêm, thung lũng ruộng bậc thang, mùa hoa ban nở trắng rừng... hiện lên qua ngòi bút tinh tế và thấm đẫm tình người. Đó là cảnh một buổi sáng bình yên “từ mặt đất mây mù cứ cất cao như một mành sương dần dần cuộn lên", là mùa xuân về hiền hòa trong "trùng trùng sương trắng”, khi "hoa ban nở trắng rừng và cỏ xanh mượt mà như nhung”…. Trong những tác phẩm của Tô Hoài còn có các phong tục tập quán xưa của đồng bào Tây Bắc như tục cướp vợ, cúng bái, trình ma, xử kiện,... được phản ánh rất chân thực và hấp dẫn. Những trang viết của ông thấm đượm màu sắc dân tộc, rất gần gũi. Qua đó, bức tranh toàn diện về thiên nhiên và con người nơi đây cũng như được tái hiện lại một cách rõ nét. Thiên nhiên thì hùng vĩ, hiểm trở nhưng đồng thời cũng mang một vẻ đẹp diệu kỳ, đầy chất thơ. Con người thì hồn hậu, chất phác nhưng rất cương trực, khảng khái.
Nguyễn Tuân lại đem đến cảm nhận về một Tây Bắc khác - kỳ vĩ và tinh tế như một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Trong “Tùy bút sông Đà”, Nguyễn Tuân mô tả con sông Đà “như một áng tóc mây ngàn vạn sải”, “Tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Đó còn là cảnh núi lớp lớp mênh mông như biển đá “Núi xa, núi gần liên miên như trùng dương thạch trận”; là những thung lũng màu mỡ, lúa chín vàng; là trăm ngàn thứ hoa tỏa hương đua sắc, hoa mận trắng, hoa lau tia tía, hoa trẩu hoa đào… Qua ngòi bút của ông, Tây Bắc không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn cả vẻ đẹp của con người Tây Bắc mà ông gọi là “Chất vàng mười”. Chất vàng đó ở những anh bộ đội, những anh chị em dân công trên chiến trường Điện Biên Phủ, ở những người cộng sản kiên cường ở Nhà tù Sơn La,...
Xúc động trước những con người góp sức mình tô đẹp miền Tây Bắc, Nguyễn Khải khắc họa trong "Mùa lạc" hình ảnh những con người hăng say lao động, khắc phục mọi khó khăn gian khổ để xây dựng cuộc sống mới; những dân công miền xuôi năm xưa nhiều người đã ở lại chiến trường Điện Biên; nghe theo tiếng gọi của Bác Hồ đã có hàng trăm, hàng ngàn các trí thức, thanh niên đã xung phong lên Tây Bắc xây dựng cuộc sống mới… Đó là chị Đào, là anh Huân, chị Lịu, anh Lâm... Họ cũng chính là một trong những áng văn, vần thơ làm đẹp thêm Tây Bắc.
Cũng viết về Tây Bắc nhưng nhà thơ Quang Dũng lại cảm nhận với một vẻ đẹp độc đáo: vừa hùng vĩ, vừa dữ dội, vừa tươi tắn và vừa thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…”
Bức tranh thiên nhiên cheo leo, hiểm trở ấy lại hòa cùng vẻ thơ mộng, tạo nên hình tượng Tây Bắc như một bản hùng ca trữ tình, đậm chất sử thi. Chính từ những vần thơ ấy đã khơi nguồn để các nhà thiết kế tạo nên Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến tại phường Mộc Châu hôm nay.
Hình ảnh con đường với đồi núi quanh co nhưng cũng đượm chất trữ tình cũng được tác giả Phạm Đình Nhân miêu tả trong bài thơ “Đường lên Tây Bắc”, là những cánh đào rung rinh trước gió, là những cô gái Thái đi nương như cõng cả mây, cả gió trên lưng:
“Quanh co hết dốc lại đèo
Lưng đồi đào nở gió reo hát mừng
Dăm cô gái Thái trên lưng
Cõng mây gió, cả núi rừng cỏ cây…”
Không chỉ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên, ở những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, Tây Bắc còn hiện lên trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc với dáng vẻ anh hùng, bất khuất. Đó là ngã ba Cò Nòi kiên trung dưới mưa bom, bão đạn, gồng mình góp sức làm nên một Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Trong bài thơ Bài ca về ngã ba Cò Nòi anh hùng, tác giả Trần Nguyên Mỹ viết:
"Ngã ba Cò Nòi chỉ 4 km² thôi
Nhỏ bé như một bàn tay nhuộm máu
Vẫn cao đầu đứng trong bom đạn
Giữ vững con đường huyết mạch
Giữ cho Cò Nòi nối với Điện Biên
Cò Nòi còn thì Điện Biên thắng lợi!
Ngã ba Cò Nòi, Sơn La hát mãi bản hùng ca!".
Tây Bắc trong văn học Việt Nam không chỉ là không gian địa lý, mà là không gian tâm hồn - nơi núi rừng hòa cùng con người tạo nên vẻ đẹp vừa hùng tráng, vừa nhân văn. Những điều đó khiến cho ai đã từng đặt chân đến nơi đây đều như có một tình yêu níu lại, nỗi nhớ với Tây Bắc thật khó mà đặt tên, cứ đau đáu day dứt khôn nguôi trong ký ức và khát khao một cuộc hành trình ngược vùng Tây Bắc, như lời Chế Lan Viên viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.”
Minh Thúy