Vẻ đẹp tự nhiên của văn hóa và con người Tây Bắc

Vẻ đẹp tự nhiên của văn hóa và con người Tây Bắc
5 giờ trướcBài gốc
Chợ phiên Dào San. Ảnh: Phương Liên.
Có những bài thơ đọc đến cuối mới vỡ lẽ bởi sự cuốn hút tác giả cố ý đặt phía sau, nhưng cũng có bài thơ sự hấp dẫn được tác giả bày ra ngay đoạn đầu, rồi càng đọc càng bị lôi đi, đọc xong thì không thể không sung sướng mà thốt lên rằng quả là không uổng phí thời gian. “Phiên chợ Dào San” của nhà thơ Trương Hữu Thiêm là một bài thơ như vậy.
Phiên chợ Dào San
Trương Hữu Thiêm
Vó câu khua rầm rập
Nhạc dập dồn lưng mây
Trai mười mường phầm phập
Gái chín bản phây phây.
Có vợ, đem theo vợ
Có chồng, rủ cả chồng
Chẳng có cứ đến chợ
Sẽ gặp người đi không.
Bát này rồi bát nữa
Rượu đầy như tình đầy
Vòng xòe làm bằng lửa
Tiếng đàn cháy trên dây.
Uống như chưa từng uống
Người say, núi cũng say
Bạn từ lưng trời xuống
Chân dính đầy mây bay.
Tiếng người xen tiếng lá
Tiếng lá lẫn tiếng chim
Tiếng chim chen tiếng đá
Tiếng đá hòa tiếng tim.
Áo bên hoa sặc sỡ
Khèn theo gió véo von
Thề nguyền trao giữa chợ
Nỗi niềm gửi lên non.
Họp ở trong không đủ
Thì kéo nhau ra đường
Ngựa hí dồn giục chủ
Lưng đầm đìa hơi sương.
Mật ong và thổ cẩm
Thuốc bắc và chè san
Thay vì làm tính nhẩm
Nhặt đá xếp lên bàn.
Đã bán, rẻ cũng bán
Đã mua, đắt cũng mua
Bán như là giời bán
Mua như là vua mua.
Ăn, ăn toàn thắng cố
Uống, uống toàn rượu ngô
Uống đến khi rượu đổ
Người đứng ngủ dưới ô.
Mỗi năm mười hai tháng
Mỗi tháng có bốn phiên
Suốt từ ba giờ sáng
Náo nức một vùng biên.
Sớm mai leo ngược dốc
Trở lại với non ngàn
Lòng như hòn đá hộc
Lăn xuôi về Dào San...
Bốn dòng thơ đều có bốn từ láy xuất hiện “rầm rập/ dập dồn/ phầm phập/ phây phây” nhưng tỷ lệ từ láy tượng thanh chiếm đến 3/4 thì điều ấy chứng tỏ âm thanh đã được tác giả chủ ý đẩy lên nhằm diễn ngôn tạo ấn tượng mạnh cho đoạn thơ đầu. Không gì diễn tả sự háo hức, không khí hừng hực hay bằng từ láy tượng thanh.
Bởi thế có thể nói đoạn thơ đầu đã rất thành công trong việc khái quát không khí đi lễ tết của người vùng cao Tây Bắc. Ở đó lại có đủ “trai, gái” của “mười mường, chín bản”. Chất trẻ trung như được đặt lên hàng đầu, cho nên khí thế ấy không hừng hực mới là chuyện lạ. Âm thanh ấy, khí thế ấy hút hồn độc giả.
Lại thêm cách tả ảo thực đan cài “nhạc dồn dập lưng mây” và vẻ đẹp thanh nữ lấp lánh phồn thực trong hai chữ “phây phây” nó cuốn lấy người ta, thì sao chẳng đắm mê? Nhịp thơ nhanh như thúc giục, cái đẹp như mồi nhử, bước chân sao chẳng “dập dồn”, “phầm phập”? “Thi trung hữu họa” quả không sai mà! Đoạn thơ đầu đã là một thành công vì vẽ nên được cái không khí lễ hội ấy thật sống động và hấp dẫn.
Vì sao phiên chợ ấy lại lôi cuốn được người đi chợ đến vậy? Vì nó hứa hẹn đầy những lấp lánh hạnh phúc bởi: “Có vợ, đem theo vợ/ Có chồng, rủ cả chồng”. Câu thơ rất thật và đậm đặc chất văn hóa người Mông. “Đem theo” và “rủ cả” nếu có vợ, có chồng rồi, là một minh chứng cho sự hòa hợp và công bình, họ đâu muốn hưởng niềm vui cho riêng mình. Ấy là dành cho những cặp những đôi.
Những người chưa có cặp có đôi thì sao? Câu thơ vẫn ẩn chứa những tia hy vọng hạnh phúc, hạnh phúc như đang vẫy gọi phía trước, ăm ắp vỗ về: “Chẳng có cứ đến chợ/ Sẽ gặp người đi không”. Giọng thơ tự nhiên và ắp đầy tươi vui. Háo hức dường như chia đều cho tất cả. Rạo rực râm ran dường như đang tràn khắp làng bản.
Không khí chợ tràn ngập bài thơ. Cách uống rượu và sặc sỡ váy áo góp phần vẽ nên bức tranh tâm hồn của người vùng cao đi chợ. Sự chân chất hết mình rừng rực: “Bát này rồi bát nữa/ Rượu đầy như tình đầy/… Uống như chưa từng uống/ Người say, núi cũng say”. Nghệ thuật phóng đại đã có mảnh đất trữ tình mênh mang để phô diễn: “Vòng xòe làm bằng lửa/ Tiếng đàn cháy trên dây/… Bạn từ lưng trời xuống/ Chân dính đầy mây bay”.
Chao ôi đẹp, vẻ đẹp được tạo ra bởi sự hòa quyện giữa cái thực và cái ảo càng thêm lung linh diễm tình hơn. Cứ là cháy hết mình, cứ là rừng rực suốt buổi. Sự phóng khoáng được đẩy lên kịch trần: “Bạn từ lưng trời xuống/ Chân dính đầy mây bay” đã đem lại nét họa không gian mênh mông trùng điệp của núi rừng và con người Tây Bắc.
Một bản nhạc giao hưởng tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên: “Tiếng người xen tiếng lá/Tiếng lá lẫn tiếng chim/Tiếng chim chen tiếng đá/Tiếng đá hòa tiếng tim”. Điểm dừng cuối khổ thơ có chủ ý nhấn mạnh cho điểm rơi đúng vào hai chữ “tiếng tim” nhưng nghe lại rất tự nhiên làm cho nhịp thơ như rung ngân một giai điệu êm đềm tình tứ.
Để rồi sau đó, tác giả nhẹ nhàng cài đặt phía sau một tương lai hứa hẹn: “Thề nguyền trao giữa chợ/ Nỗi niềm gửi lên non”. Thế thì, cuộc gặp gỡ ấy đâu chỉ là thoảng qua “giữa chợ”, nó như đã mang cả “tiếng tim” của nhau rồi, thì hẳn phải ấp ủ một điều chi đó lớn hơn nên lời thơ mở ra tròn đầy một sự gửi gắm ước ao “nỗi niềm gửi lên non”. Một sự hứa hẹn viên mãn trông chờ phía trước ắp đầy tin tưởng.
Bài thơ còn mở ra cả không gian tình tứ mê say: “Họp ở trong không đủ/ Thì kéo nhau ra đường/ Ngựa hí dồn giục chủ/ Lưng đầm đìa hơi sương”. Cứ là chìm đắm, cứ là quấn quýt, cứ là hừng hực. Lời thơ gián tiếp mà như vẽ lại được cái không khí lứa đôi say mê rạo rực ấy. Câu thơ có hồn, giọng thơ đắm đuối, mê dụ.
Đến chợ dĩ nhiên là mua bán, hàng hóa phải có mặt để cho đủ cái cớ mà người ta gặp nhau: “Mật ong và thổ cẩm/ Thuốc bắc và chè san/ Thay vì làm tính nhẩm/ Nhặt đá xếp lên bàn”. Hình ảnh lạ, dẫu chỉ thoáng qua, cũng ghi lại được sự độc đáo của phiên chợ vùng cao “nhặt đá xếp lên bàn” “thay vì làm tính nhẩm”.
Rồi cái tính cách con người ở đó cứ thế mà hiện ra: “Đã bán, rẻ cũng bán/ Đã mua, đắt cũng mua/ Bán như là giời bán/ Mua như là vua mua”. Dứt khoát, quyết liệt. “Đã bán… cũng bán”, “đã mua… cũng mua” rồi chêm xen cộng hưởng thêm mấy chữ lạ “giời bán”, “vua mua” như là một kiểu kích hoạt làm cho nổi bật tính cách con người vùng cao.
Họ không nằn nì, họ không lan man, họ không kì kèo. Rất nhanh, rất cương quyết. Tất cả, hào sảng vô tư. Ấy cũng là một phần vẽ nên cái đẹp cho bài thơ vậy.
Nét văn hóa của người vùng cao được nhìn qua con mắt ẩm thực cũng là một điều đáng ghi nhận. Họ “ăn, uống” chính những sản vật của họ làm ra: “Ăn, ăn toàn thắng cố/ Uống, uống toàn rượu ngô” một cách nhiệt tình không hề có chút gì gọi là khách sáo màu mè ở đây.
Một sự hết mình trong cách sống: “Uống đến khi rượu đổ/ Người đứng ngủ dưới ô”. Hai cặp từ lạ và hay “rượu đổ”, “đứng ngủ” đã vẽ gần như được cái hồn cốt cách thức giao tiếp và phong cách sinh hoạt nơi con người vùng cao. Điều ấy chứng tỏ, họ hết mình chứ không buông thả, say rượu chứ không bê tha: “Uống đến khi rượu đổ/ Người đứng ngủ dưới ô”.
Lời thơ ở hai đoạn cuối chuyển sang giọng điệu nhận xét có ý khoanh vùng tác dụng độc đáo của phiên chợ Dào San: “Mỗi năm mười hai tháng/ Mỗi tháng có bốn phiên/ Suốt từ ba giờ sáng/ Náo nức một vùng biên”. Cái cách sử dụng câu chữ ở đây nói lên sự kiện kia đã ghim vào lòng rất rõ, cứ mồn một hiện ra qua cách dùng từ như điểm danh “mỗi năm”, “mỗi tháng”, “suốt từ ba giờ sáng”.
Niềm vui khi mua được tấm áo mới cho con. Ảnh: ITN.
Đến đoạn cuối, lời thơ chốt lại nhưng ý thơ như lại được mở ra: “Sớm mai leo ngược dốc/ Trở lại với non ngàn/ Lòng như hòn đá hộc/ Lăn xuôi về Dào San...”. Lòng như là “hòn đá hộc” chỉ mong muốn “lăn xuôi về Dào San” thì quả là thật quá thú vị vì hợp cảnh vô cùng. Thốt nhiên, chúng tôi nghĩ đến những câu thơ của Hoàng Trung Thông viết khi chia tay với nơi mình vừa đến: “Thuyền ơi chầm chậm chờ ta nhé/Muốn ở đây thôi chẳng muốn về” (Chơi hồ Ba Bể)…
Có thể nói bài thơ “Phiên chợ Dào San” của tác giả Trương Hữu Thiêm cuốn hút người đọc vì nó nói lên một cách rất tự nhiên nét đẹp văn hóa và vẻ đẹp con người Tây Bắc. Lời thơ nhẹ nhàng mà tan chảy. Nó cuốn lấy hồn người từ chính vẻ đẹp câu chữ. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết “thơ hay như người con gái đẹp/ đi đến đâu cũng lấy được chồng”; nhà thơ Xuân Diệu thì nói “thơ hay như con gà ngon, ngon từ khúc khuỷu đầu cánh…”.
Có lẽ thế, đoạn nào trong bài thơ “Phiên chợ Dào San” cũng hay, mỗi đoạn như nhận lĩnh một nhiệm vụ “thôi miên” độc giả, cứ thế tõe ra, dẫn dắt và thể hiện, hú gọi và bộc bạch, nghe đến đâu là cuốn đến đó, khó lòng mà dứt ra được. Tâm thế ấy, cách thể hiện ấy, có được sự chia sẻ và đồng cảm như hút hồn ấy thì một đời viết, chúng tôi thiết nghĩ có được một “Phiên chợ Dào San” cũng đã là một hạnh phúc rồi, còn cầu mong chi nữa?
Nguyễn Ngọc Tân (Nguyên giáo viên Trường THPT Trần Văn Thời, Cà Mau)
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/ve-dep-tu-nhien-cua-van-hoa-va-con-nguoi-tay-bac-post742390.html