Về làng Nam Cao nghe chuyện nghề dệt đũi

Về làng Nam Cao nghe chuyện nghề dệt đũi
3 giờ trướcBài gốc
Bước qua cổng làng, sự ồn ã của phố thị dường như lùi lại phía sau. Chào đón chúng tôi là tiếng lách cách, kẽo kẹt đều đều của những khung cửi gỗ vang lên trong không gian yên ả.
Trước đây, đũi Nam Cao nổi tiếng khắp cả nước nhờ sự độc bản trong kỹ thuật kéo sợi thủ công, tạo nên bề mặt thô sần tự nhiên hiếm có. Đó là những sản phẩm được làm thủ công với rất nhiều công đoạn khác nhau. Từ khâu chọn lựa nguyên liệu tới khi thành phẩm, đòi hỏi rất nhiều sự công phu tới từ đôi bàn tay cần mẫn, tỉ mỉ, chau chuốt từng chút một của những người nghệ nhân.
Ngược dòng thời gian về những năm 1580, nghề dệt đũi đã bắt đầu bén rễ tại vùng đất này nhờ công lao của hai bà Từ Tiên và Từ An. Rời làng Vân Xa (Hà Tây cũ), hai bà mang theo bí quyết trồng dâu nuôi tằm về truyền dạy cho dân bản địa. Từ đó, nhịp sống Nam Cao hình thành một nét văn hóa đặc trưng: Khi việc đồng áng vừa ngơi tay cũng là lúc tiếng khung cửi vang lên. Mỗi thước đũi thành hình là kết quả của sự kiên nhẫn, của nhịp chân đạp cửi đều đặn và sự tập trung cao độ bên tiếng thoi đưa.
Đũi Nam Cao chinh phục con người ta bằng sự mộc mạc. Ít ai biết rằng, để làm ra tấm vải mềm mại ấy là cả một bề dày lịch sử hơn 400 năm của làng Cao Bạt cổ. Đó là kết tinh của quy trình trồng dâu nuôi tằm khép kín và kỹ thuật kéo sợi thủ công độc đáo, nơi người thợ rút từng kén tằm để lấy tơ. Chính sự kỳ công ấy đã đưa đũi Nam Cao từ nếp nhà tranh vươn mình trở thành vật phẩm tiến vua, góp mặt trong những bộ y phục trang trọng chốn cung đình xưa.
Câu chuyện của sợi đũi Nam Cao khởi nguồn từ những góc sân gạch mộc mạc, nơi bàn tay người thợ già vẫn ngày ngày nhẫn nại với từng nong kén tằm.
Dẫn chúng tôi đi xem từng công đoạn, chị Nguyễn Thị Hà, Quản lý sản xuất Hợp tác xã dệt đũi Nam Cao dừng lại bên một chiếc khung dệt cũ kỹ. Cô kể, giọng bùi ngùi: “Chiếc khung này hơn trăm tuổi rồi đấy. Hồi đó, cụ bà đã định mang đi gẩy lửa bánh chưng rồi”. Chị Hà đã may mắn xin lại được, đưa về Hợp tác xã để lưu giữ và tiếp tục dệt nên những thước vải đậm chất truyền thống của làng nghề.
Để tạo nên một tấm vải đũi hoàn chỉnh, người thợ dệt đũi Nam Cao trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ và công phu. Ảnh: MAI ANH
Quy trình làm đũi Nam Cao là một chuỗi những công đoạn kỳ công mà cô Hà ví như một cuộc "đua sức" với thời gian. Vì thổ nhưỡng địa phương không còn phù hợp, Hợp tác xã phải liên kết với bà con bên bãi bồi Hồng Phong, Vũ Thư để có nguồn kén sạch. Tằm vốn nhạy cảm, chỉ cần nghe tiếng sấm động hay dị ứng thuốc trừ sâu từ lúa là có thể chết trong tổ. Những chiếc kén sau khi tuyển chọn kỹ lưỡng được đưa vào công đoạn nấu. Tùy theo loại kén mà thời gian ngâm kén khác nhau: Kén trắng ninh kỹ 5 tiếng, kén vàng mất khoảng 3 tiếng mới đủ độ nhừ để nhả tơ.
Nghề làm đũi vất vả nhất chính là khâu kéo sợi. Để có được một kho sợi, 100 bà con trong làng phải kéo miệt mài suốt một năm trời. Những người nghệ nhân như ông Nguyễn Đình Đại phải ngâm tay hoàn toàn trong nước lạnh từ 9 đến 10 tiếng mỗi ngày, nhưng năng suất một ngày cũng chỉ vỏn vẹn được 70 đến 100 gram sợi.
Sau khi kéo, sợi đũi thường bị xơ, và đây chính là lúc bí quyết độc bản của Nam Cao xuất hiện: Vò sợi với cơm. Người thợ dùng chân trần vò kỹ nhựa cơm với sợi để tơ săn lại, rắn rỏi và không bị xù lông khi dệt. Sự cầu kỳ này khiến một cuộn vải 20 mét dệt thủ công phải mất tới 9 đến 10 ngày mới hoàn thành. So với dệt máy, sản phẩm từ khung thủ công dày dặn hơn hẳn, một mét vải có thể nặng tới 2 lạng, giúp áo vest lên form rất đứng và sang trọng.
Bên chiếc khung cửi hơn 100 năm tuổi, nghề dệt đũi ở Nam Cao vẫn được nâng niu và gìn giữ qua từng sợi tơ. Ảnh: MAI ANH
Toàn xã hiện chỉ còn chừng 50 đến 60 người cao tuổi thành thạo kỹ nghệ rút đũi, và ông Nguyễn Đình Đại là một trong những người “giữ lửa” hiếm hoi ấy.
Bên hiên nhà, tiếng vỏ kén va vào thành nong lạo xạo theo nhịp tay thoăn thoắt của người nghệ nhân. Ông đang thực hiện công đoạn tuyển kén, khâu đầu tiên quyết định chất lượng tơ. Tay ông Đại thoăn thoắt nhặt bỏ những chiếc kén dập. Ông Đại vừa giải thích: "Màu sắc vỏ kén không quyết định chất lượng tơ. Vàng hay trắng thì tính chất sợi cũng như nhau, chỉ khác ở giống tằm. Cái chính là kén tằm phải sạch, chỉ cần sót lại kén sạn, kén hỏng, sợi đũi thành phẩm sẽ mất độ mềm mại, mặt vải không thể mịn và bóng được”.
Quy trình làm đũi, nghe qua thì tưởng chừng đơn giản, nhưng đi sâu vào mới thấy hết sự kỳ công của người Nam Cao. Ông Đại kể, nhặt sạch rồi chưa xong, kén phải được đem ngâm nước từ 30 phút đến một tiếng đồng hồ. Khi kén đã "ngậm" nước, người thợ lại phải dùng tay, thậm chí dùng chân để vò, để dầm cho kén mềm hẳn ra.
Ông Đại nhấn mạnh: "Sau khi vò kỹ mới đưa vào nồi luộc. Mà luộc kén đũi là cuộc thi gan với lửa. Nhanh thì 3 - 4 tiếng, gặp mẻ kén dai thì phải ninh đến 5 tiếng đồng hồ kén mới chín nhừ, mới chịu nhả tơ". Hóa ra, vẻ đẹp mộc mạc của tấm lụa đũi được đánh đổi bằng hàng giờ liền canh lửa, ngâm tay trong nước của người nghệ nhân.
Giống như bao làng nghề thủ công khác trước cơn bão của thị trường, Nam Cao cũng từng có những ngày tháng chông chênh, khi thói quen tiêu dùng thay đổi, đẩy khung cửi vào góc bếp phủ bụi. Từng đứng trước nguy cơ mai một, nghề dệt đũi nơi đây đang dần hồi sinh nhờ một hướng đi bền bỉ, lấy con người, đặc biệt là lớp trẻ làm trung tâm.
Nghệ nhân Nguyễn Đình Đại giới thiệu với du khách về những mảnh vải sau khi đã được dệt xong. Ảnh: MAI ANH
Hơn 10 năm qua, hợp tác xã kiên trì triển khai dự án khôi phục nghề, trong đó chú trọng truyền dạy từ thế hệ đi trước sang thế hệ sau. Khoảng 4 năm trở lại đây, các cuộc thi kéo đũi dành cho trẻ em được tổ chức đều đặn, kèm theo những giải thưởng động viên, giúp các em sớm làm quen và nuôi dưỡng tình yêu với khung cửi, sợi tơ. Những bà, những mẹ trực tiếp “cầm tay chỉ việc”, truyền lại từng công đoạn, từ kéo sợi đến dệt vải.
Từng có thời điểm nghề gần như lụi tàn, nhưng từ khi hợp tác xã được thành lập năm 2015 và đưa sản phẩm ra thị trường trong nước lẫn quốc tế, đũi Nam Cao dần có chỗ đứng, giá trị cũng được nâng lên. Đáng chú ý, việc nhiều người trẻ sau khi học tập, làm việc xa quê đã lựa chọn quay trở về đã tạo hiệu ứng lan tỏa, thu hút thêm không ít bạn trẻ khác trở lại làng.
Qua một thời gian ngắn học nghề, họ không chỉ nắm vững quy trình sản xuất, mà còn đủ tự tin giới thiệu, hướng dẫn cho du khách. Với Nam Cao, dệt đũi không kén tuổi, không phân biệt giới tính, chỉ cần đam mê và tình yêu làng nghề, chính điều đó đang thắp lại nhịp sống rộn ràng cho một nghề truyền thống tưởng chừng đã ngủ quên.
Trên hành trình của mình, chúng tôi được gặp gỡ những vị khách du lịch ghé thăm nơi đây. Có biết bao câu chuyện về những thăng trầm của làng nghề, mong muốn chung tay phục dựng bảo tồn truyền thống của cha ông, đã được chính các nghệ nhân truyền tải tới du khách qua cách trò chuyện mộc mạc dân dã của mình.
Đến với Nam Cao, điều khiến họ ấn tượng nhất chính là sự thân thiện của người dân địa phương và tính minh bạch trong quá trình sản xuất. Việc được trực tiếp quan sát các công đoạn làm nghề thủ công giúp du khách củng cố niềm tin và thêm yêu mến sản phẩm đũi truyền thống. Minh chứng rõ nét nhất cho sức hút này là con số ấn tượng: Khoảng 10.000 lượt khách trong và ngoài nước đã tìm về Nam Cao từ đầu năm tới nay.
Nguồn QĐND : https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/ve-lang-nam-cao-nghe-chuyen-nghe-det-dui-1018215