Bộ Tài chính vừa công bố bản tổng hợp ý kiến, tiếp thu, giải trình kiến góp ý đối với dự thảo Thông tư hướng dẫn Luật Thuế GTGT. Góp ý cho dự thảo này, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng việc xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) để thu hồi nợ vay là nghiệp vụ phát sinh trực tiếp từ hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng (TCTD).
Hoạt động này có vai trò quan trọng trong việc thu hồi nợ và xử lý nợ xấu. Theo Hiệp hội, tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 219/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, cùng các văn bản sửa đổi, bổ sung, đã quy định rõ: hoạt động bán TSBĐ do TCTD, cơ quan thi hành án hoặc bên vay vốn tự bán thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tuy nhiên, tại dự thảo Thông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế GTGT và hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT, nội dung này chưa được nêu cụ thể.
Bộ Tài chính bác đề xuất miễn thuế GTGT với tài sản bảo đảm.
Hiệp hội cho rằng nếu không quy định rõ, có thể phát sinh cách hiểu khác nhau khi áp dụng, dẫn đến việc tính thuế GTGT đối với hoạt động bán TSBĐ. Điều này sẽ gây khó khăn cho các TCTD trong xử lý nợ xấu, làm tăng chi phí cho bên đi vay và kéo dài thời gian thu hồi nợ.
Từ đó, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kiến nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định như sau: “Bán TSBĐ tiền vay do tổ chức tín dụng, cơ quan thi hành án hoặc bên đi vay vốn tự bán theo ủy quyền của bên cho vay để trả nợ khoản vay có bảo đảm thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.”
Phản hồi góp ý này, Bộ Tài chính viện dẫn điểm h khoản 9 Điều 5 Luật Thuế GTGT, trong đó quy định đối tượng không chịu thuế GTGT bao gồm: “Bán TSBĐ của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, do Chính phủ thành lập và có chức năng mua, bán nợ để xử lý nợ xấu của các TCTD Việt Nam.”
Theo Bộ Tài chính, quy định này đã xác định rõ đối tượng không chịu thuế, giới hạn cho các tổ chức do Nhà nước thành lập để xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD. Như vậy, hoạt động bán TSBĐ nói chung của TCTD, cơ quan thi hành án hoặc bên vay vốn không thuộc phạm vi miễn thuế theo luật định.
Ngoài ra, dự thảo Thông tư nêu trên không được giao nhiệm vụ quy định chi tiết về đối tượng không chịu thuế GTGT ngoài nội dung đã có trong luật, cũng như không giao Bộ Tài chính thẩm quyền mở rộng phạm vi áp dụng. Luật Thuế GTGT chỉ giao Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định về hồ sơ, thủ tục xác định đối tượng không chịu thuế, không bao gồm việc xác định thêm đối tượng mới.
Từ các căn cứ pháp lý nêu trên, Bộ Tài chính khẳng định kiến nghị của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Thông tư, và hiện chưa có đủ cơ sở pháp lý để bổ sung nội dung như đề xuất.
Dự thảo Thông tư hiện đang trong quá trình lấy ý kiến, cùng với dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế GTGT sửa đổi. Bộ Tài chính cho biết sẽ tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp các ý kiến đóng góp, đồng thời rà soát tính pháp lý và tính khả thi để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Thanh Hoa