Vì sao Luật sửa đổi Luật Địa chất và khoáng sản bổ sung quy định về đất hiếm?

Vì sao Luật sửa đổi Luật Địa chất và khoáng sản bổ sung quy định về đất hiếm?
4 giờ trướcBài gốc
Tài nguyên chiến lược của kỷ nguyên công nghệ
Bước sang thế kỷ XXI, đất hiếm được ví như “mạch máu” của nền công nghiệp hiện đại. Đây là nguyên liệu không thể thiếu trong chế tạo chip bán dẫn, nam châm vĩnh cửu, pin xe điện, tuabin gió, tấm pin mặt trời hay robot quân sự, những sản phẩm then chốt của kỷ nguyên công nghệ cao và năng lượng tái tạo.
Theo các báo cáo quốc tế, nhu cầu đất hiếm toàn cầu tăng mạnh do làn sóng chuyển đổi năng lượng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu đều đã ban hành luật riêng về quản lý đất hiếm, thể hiện tầm quan trọng chiến lược của loại tài nguyên này.
Việt Nam hiện được đánh giá là quốc gia có tiềm năng đất hiếm lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Theo Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm của Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn, chiếm gần 20% tổng trữ lượng toàn cầu. Các mỏ chủ yếu tập trung ở Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, ngoài ra còn xuất hiện ở Hà Giang, Cao Bằng, Nghệ An, Kon Tum, Lâm Đồng… Trong đó, mỏ đất hiếm ở Lai Châu được đánh giá có quy mô công nghiệp, có thể khai thác lâu dài và hiệu quả.
Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về đất hiếm - nguyên liệu chiến lược sản xuất chất bán dẫn. Ảnh minh họa.
Theo "Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050", dự kiến, trong thời kỳ đến năm 2030, Việt Nam sẽ khai thác khoảng 2 triệu tấn quặng đất hiếm nguyên khai/năm.
Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của đất hiếm đối với an ninh tài nguyên và phát triển công nghiệp quốc gia. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị xác định đất hiếm là khoáng sản chiến lược cần được phát triển đồng bộ, hiệu quả và bền vững.
Tiếp đó, Quyết định số 334/QĐ-TTg ngày 01/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp khai thác, chế biến đất hiếm gắn liền với hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
Ngày 4/11, khi trình bày trước Quốc hội dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và Khoáng sản, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết: Dự luật lần này dành một chương riêng về quản lý đất hiếm, thể hiện cách tiếp cận mới và toàn diện hơn.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng. Ảnh: QH.
Bộ trưởng nhấn mạnh, đất hiếm là hàng hóa đặc biệt, có vai trò chiến lược trong các ngành công nghệ cao, năng lượng tái tạo và quốc phòng. Do đó, cần thiết phải có cơ chế quản lý riêng, chặt chẽ và thống nhất, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp khai thác - chế biến đất hiếm đồng bộ, bền vững và hiệu quả.
Bước đi khẳng định tầm nhìn quốc gia
Việc bổ sung quy định quản lý đất hiếm trong Luật Địa chất và Khoáng sản đánh dấu bước chuyển quan trọng từ tư duy khai thác tận thu sang quản lý và phát triển tài nguyên bền vững, đảm bảo mọi hoạt động từ điều tra, thăm dò đến khai thác, chế biến đều gắn với Chiến lược quốc gia về đất hiếm, dưới sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước.
Chỉ những doanh nghiệp đủ năng lực, được Nhà nước chỉ định hoặc cấp phép mới được tham gia vào chuỗi hoạt động này. Cách tiếp cận này không chỉ giúp kiểm soát chặt chẽ nguồn tài nguyên chiến lược, mà còn khuyến khích đầu tư chế biến sâu, thay vì xuất khẩu quặng thô - hướng đi đã từng khiến nhiều quốc gia đánh mất lợi thế tài nguyên.
Bên cạnh đó, dự thảo luật đặt ra các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt, bởi đất hiếm là loại khoáng sản có quy trình khai thác và chế biến phức tạp, dễ gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Việc luật hóa cơ chế quản lý đồng nghĩa với quy định rõ trách nhiệm doanh nghiệp trong phục hồi môi trường, giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất, đảm bảo phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ hệ sinh thái.
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc luật hóa quản lý đất hiếm là phát triển công nghiệp chế biến sâu trong nước. Việt Nam định hướng xây dựng chuỗi sản xuất khép kín: Từ khai thác, tuyển chọn đến chế tạo vật liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp năng lượng mới, điện tử, cơ khí chính xác. Đây không chỉ là "bài toán" kinh tế, mà còn là chiến lược giúp đất hiếm trở thành “chìa khóa” mở ra vị thế mới cho Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, để chính sách này đi vào thực tiễn, Việt Nam cần chuẩn bị về công nghệ, nhân lực và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Khai thác và chế biến đất hiếm đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật cao, thời gian dài, vì vậy, Nhà nước cần tăng cường nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế. Các địa phương có tiềm năng đất hiếm cũng cần được hỗ trợ trong quy hoạch, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế gắn với lợi ích cộng đồng.
Bổ sung quy định quản lý đất hiếm trong Luật Địa chất và Khoáng sản không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật trong luật, mà là sự khẳng định vai trò của Nhà nước trong bảo vệ lợi ích quốc gia, gìn giữ tài nguyên cho các thế hệ mai sau, đồng thời kiến tạo nền tảng vững chắc cho một nền công nghiệp hiện đại, xanh và tự chủ.
Việc hoàn thiện khung pháp lý về quản lý đất hiếm được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng cho Việt Nam chủ động phát triển ngành công nghiệp đất hiếm hiện đại, tận dụng tiềm năng tài nguyên trong nước, đồng thời tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh nhu cầu về loại tài nguyên chiến lược này không ngừng gia tăng.Theo dự thảo Luật, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan lập chiến lược quốc gia về đất hiếm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phương Trang
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/vi-sao-luat-sua-doi-luat-dia-chat-va-khoang-san-bo-sung-quy-dinh-quan-ly-dat-hiem-428943.html