Vì sao mô hình bác sĩ gia đình chưa đạt như kỳ vọng?

Vì sao mô hình bác sĩ gia đình chưa đạt như kỳ vọng?
6 giờ trướcBài gốc
Sự thiếu vắng một hệ thống y học gia đình vững mạnh đang tạo ra những gánh nặng đáng kể đến an sinh xã hội.
Hệ thống y tế cơ sở yếu kém
Một trong những thước đo cơ bản nhất để đánh giá một hệ thống y tế là tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân. Theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến năm 2024, Việt Nam đạt 14 bác sĩ trên 10.000 dân. Khi đặt cạnh các quốc gia phát triển, khoảng cách này càng trở nên rõ rệt. Cụ thể như Úc có 36 bác sĩ/10.000 dân, Pháp là 34 bác sĩ/10.000 dân, và ngay cả Trung Quốc cũng đạt 22 bác sĩ/10.000 dân.
Sự thiếu hụt này dẫn đến việc không có đủ đội ngũ bác sĩ chuyên trách để xây dựng và duy trì một mạng lưới y học gia đình rộng khắp.
Không dừng lại ở việc khiêm tốn tổng số bác sĩ mà Việt Nam còn đặc biệt thiếu trầm trọng với đội ngũ y học gia đình chuyên sâu. Các số liệu cho thấy tính đến năm 2018, chỉ có hơn 500 bác sĩ chuyên khoa cấp I và 70 bác sĩ định hướng y học gia đình được đào tạo. Mặc dù Bộ Y tế từng đặt mục tiêu đào tạo ít nhất 9.000 bác sĩ đến năm 2020, nhưng mục tiêu này đến nay vẫn chưa thể đạt được.
Mô hình bác sĩ gia đình chưa phát triển rộng khắp.
Đặc biệt, năm 2000, chuyên ngành y học gia đình đã được Bộ Y tế chính thức công nhận. Tuy nhiên, hầu hết các trường Y ở Việt Nam đến nay vẫn thiếu các khóa học cốt lõi bắt buộc về y học gia đình.
Theo đánh giá của ngành chức năng, mô hình bác sĩ gia đình phụ thuộc vào một mạng lưới y tế cơ sở vững mạnh, nhưng các phòng khám và trạm y tế ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù Luật Khám, chữa bệnh 2023 đã có hiệu lực, nhưng vẫn chưa có các thông tư hướng dẫn cụ thể về cơ chế tài chính và các quy định cho y tế cơ sở, khiến các trạm y tế khó có thể hoạt động hiệu quả theo mô hình bác sĩ gia đình. Các số liệu cập nhật gần đây vẫn chưa được công bố rộng rãi, cho thấy sự thiếu đồng bộ và phát triển manh mún của mô hình này.
Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 16/2014/TT-BYT, sau đó là Thông tư 21/2019/TT- BYT để áp dụng thí điểm hoạt động y học gia đình. Tuy nhiên, hiện nay chưa có mô hình cụ thể để thực hiện, trong đó vướng mắc nhất là cơ chế xác định giá dịch vụ và thanh toán bảo hiểm y tế cho các dịch vụ bác sĩ gia đình, nguyên tắc phối hợp chuyển tuyến và trao đổi thông tin phù hợp giữa các phòng khám bác sĩ gia đình với hệ thống phòng khám, chữa bệnh trong quá trình quản lý bệnh nhân.
Ông Đào Văn Cứu, người dân ở Hải Phòng, cho biết người có thẻ BHYT không được hưởng các quyền lợi BHYT khi sử dụng dịch vụ tại các phòng khám bác sĩ gia đình, hoặc chỉ được thanh toán một phần rất nhỏ. Điều này đi ngược lại với mục tiêu của mô hình y học gia đình, đó là giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế ban đầu một cách thuận tiện, liên tục và toàn diện ngay tại cộng đồng.
Điều này khiến người có BHYT không mặn mà với mô hình bác sĩ gia đình và nhiều người dân cũng không tin tưởng vào chất lượng dịch vụ ở tuyến dưới và có xu hướng vượt tuyến lên các bệnh viện trung ương, tạo ra gánh nặng quá tải cho cả hệ thống.
Tác động tiêu cực đến an sinh xã hội
Sự phát triển chậm của mô hình bác sĩ gia đình đã và đang tác động tiêu cực đến an sinh xã hội, làm gia tăng sự bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe.
Theo thống kê của ngành y tế, có thời điểm tới 70% số bệnh nhân khám chữa bệnh tự vượt tuyến. Còn báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (BHXH Việt Nam) và các cơ quan chức năng cho thấy, chi phí khám chữa bệnh BHYT ở tuyến trên luôn cao hơn tuyến dưới. Chi phí này thường tăng theo từng năm.
Thói quen vượt tuyến khiến các bệnh viện tuyến trên luôn trong tình trạng quá tải nghiêm trọng. Một số bệnh viện lớn như Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện K có lượng bệnh nhân nội trú thực tế cao hơn rất nhiều so với quy định. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn lực y tế mà còn tạo ra gánh nặng về tài chính và tinh thần cho cả người bệnh và nhân viên y tế.
Bên cạnh đó, khi mô hình bác sĩ gia đình không được phát triển, công tác chăm sóc sức khỏe dự phòng và phát hiện bệnh sớm bị bỏ ngỏ. Nhiều bệnh mãn tính như tiểu đường, tăng huyết áp, hay các bệnh ung thư thường được phát hiện muộn, gây khó khăn và tốn kém hơn nhiều trong điều trị. Đặc biệt là người bệnh phải chịu chi phí lớn hơn (đi lại, ăn ở…).
Để thấy rõ tiềm năng của mô hình bác sĩ gia đình, nhìn ra thế giới, một hình mẫu thành công là Cuba là ví dụ điển hình. Hệ thống y tế Cuba nổi tiếng toàn cầu bởi sự ưu tiên tuyệt đối cho y học dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Điểm mấu chốt là việc xây dựng mạng lưới bác sĩ gia đình ở từng khu phố. Mỗi bác sĩ gia đình tại Cuba chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho khoảng 120 gia đình (tương đương 600-700 người). Họ không chỉ khám chữa bệnh thông thường mà còn quản lý hồ sơ sức khỏe, thăm nhà định kỳ, tiêm chủng và giáo dục sức khỏe cộng đồng.
Kết quả là, hệ thống y tế Cuba đã đạt được những thành tựu ấn tượng: tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp, tuổi thọ trung bình cao và kiểm soát tốt các bệnh truyền nhiễm. Thành công này đến từ việc coi trọng vai trò của y tế cơ sở, đặt bác sĩ gia đình làm trọng tâm của cả hệ thống.
Còn tại Việt Nam, mô hình bác sĩ gia đình tại vẫn còn chưa phát triển. Do đó, cần có những thay đổi mang tính đột phá về chính sách và pháp luật. Trong đó, cần có quy định rõ ràng về cơ chế bảo đảm tài chính và phân bổ ngân sách nhà nước cho y tế cơ sở và y tế dự phòng. Điều này giúp các cơ sở y tế tuyến xã, phường có kinh phí để hoạt động hiệu quả theo mô hình bác sĩ gia đình.
Đi liền với đó cần xây dựng thông tư hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn của phòng khám bác sĩ gia đình, hay danh mục và nội dung gói dịch vụ y tế cơ bản cho trạm y tế. Điều này sẽ giải quyết khó khăn cho việc quản lý, giám sát và triển khai đồng bộ trên toàn quốc.
Tùng Lâm
Nguồn Vnbusiness : https://vnbusiness.vn/an-sinh/vi-sao-mo-hinh-bac-si-gia-dinh-chua-da-t-nhu-ky-vo-ng-1109774.html