Liều lượng của các vị thuốc trong thang được tính toán rất kỹ, tùy thể trạng của bệnh nhân. Ảnh minh họa: T.T.
Gan thuộc mộc, tương ứng với mùa xuân. Cây cối muốn sinh sôi phát triển cần có đủ không gian để vươn lên, can khí cũng tương tự như vậy. Vì thế, gan thích được “điều đạt”, nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thoải mái. Nói cách khác, khi chưa trị chứng can khí uất kết, chúng ta cần phải “giải phóng” các con đường mà khí đi qua, để dòng khí thông thuận, hay còn gọi là “sơ can”.
Đối với người mắc chứng can khí uất kết đơn thuần, phương thuốc điển hình nhất chính là Tứ Nghịch Tán được hợp thành từ bốn loại thảo dược: Sài hồ, bạch thược, chỉ thực và cam thảo (nướng). Công thức cự thể là mỗi loại thảo dược lấy 6g, sắc với lượng nuớc vừa đủ, ngày hai lần, mỗi lần khoảng một lít, uống lúc còn ấm nóng.
Loại thảo duợc đầu tiên trong bài thuốc này là sài hồ, vị thuốc nổi tiếng giúp thông khí, đào thải chất độc, thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Sài hồ rất quan trọng, là lựa chọn đầu tiên để chữa trị chứng uất kết thông thường. Tuy nhiên, đối với bệnh trầm cảm lâu ngày, không nên sử dụng quá nhiều sài hồ, phải để nó từ từ đẩy những luồng khí tiêu cực ra khỏi cơ thể.
Sài hồ trong bài thuốc này đnợc coi như là quân dược[1] vị thuốc quan trọng nhất, đóng vai trò sơ can giải uất. Vậy tại sao ngoài sài hồ còn phải dùng những vị thuốc khác nữa?
Nếu chỉ dùng sài hồ không thì cũng có hiệu quả, tuy nhiên rất ít tình trạng bệnh đơn giản tới mức chỉ cần dùng sài hồ là đủ. Khi sử dụng thuốc, cần chú ý đến sự kết hợp âm dương để gia giảm cho phù hợp, nếu không sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tính của vị thuốc chính.
Thần dược ở bài thuốc này là bạch thược, có tác dựng dưỡng huyết liễm âm, đóng vai trò trung hòa để sài hồ không làm tổn thương tới yếu tố âm trong cơ thể. Về chỉ thực, tôi thường dùng vỏ vì nó có khả nǎng phá khí rất mạnh. Nếu khí uất kết quá nghiêm trọng, giống như chúng đang cuộn vào nhau thành cục trong cơ thể, lúc này chỉ thực sẽ phá vỡ được liên kết này.
Cuối cùng là cam thảo (nướng), giống như một “lão tướng” vǎn võ song toàn, nó có tác dụng điều hòa dược tính của các loại thuốc khác, giúp chúng trở nên ôn hòa hơn và không gây ra phản ứng phụ trong cơ thể.
Phương thuốc cổ xưa này được áp dụng rất rộng rãi vì nó toàn diện, công thứ hợp lý, sử dụng được cho nhiều đối tượng, phù hợp với các bệnh nhân mắc chứng can khí uất kết thông thường.
Tuy nhiên, mọi người cũng cần chú ý, một trong những nguyên nhân khiến thuốc Đông y khó sản xuất theo dây chuyền là vì chúng tôi rất coi trọng việc đúng thuốc, đúng bệnh, mỗi đơn thuốc đều được kê và gia giảm dựa trên tình hình cụ thể của từng bệnh nhân.
Nếu không thể chẩn đoán chính xác triệu chứng của bệnh nhân thì đừng dùng thuốc một cách tùy tiện. Bởi vì nếu can khí uất kết lâu và có dấu hiệu hóa hỏa, bạn cần dùng Đan Chi Tiêu Dao Hoàn; nếu khí trệ, huyết ứ có thể phải dùng Sài Hồ Sơ Can Tán chứ không phải Tứ Nghịch Tán.
[1] Quân - thần - tá - sứ : Nguyên tắc bốc thuốc của Đông y, phản ánh bốn thành phần chính tạo nên một thang thuốc. Quân dược là vị thuốc quan trọng nhất, có tác dụng giải trừ nguyên nhân gây bệnh, loại bỏ triệu chứng chính.
Thần dược đóng vai trò hỗ trợ vị thuốc chính phát huy tác dụng giải trừ gốc bệnh. Tá dược hỗ trợ quân dược và thần dược trị các triệu chứng phụ của bệnh và giảm độc tính, tác dựng phụ. Sứ dược là vị thuốc dẫn, đưa thuốc tới ổ bệnh, đóng vai trò dẫn thuốc xuyên suốt đường kinh lạc, điều hòa các vị thuốc trong cơ thể.
Thẩm Ninh/ Skybooks & NXB Thế giới