Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh “Tinh thần xuyên suốt của Nghị quyết 59 và 3 nghị quyết 70, 71, 72 là chuyển nhanh từ "ban hành chủ trương" sang "quản trị thực thi", lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm biến nội dung các nghị quyết thành công việc hằng ngày, thành chương trình hành động cụ thể, có nguồn lực, có thời hạn, có chỉ số đo lường, có giám sát và giải trình. Tôi đề nghị toàn hệ thống chính trị quán triệt và thực hiện nghiêm một số nguyên tắc trong quá trình triển khai các nghị quyết này, đó là: 5 nhất quán (chính trị - pháp lý - dữ liệu - phân bổ nguồn lực - truyền thông); 3 công khai (mục tiêu - tiến độ - kết quả); 3 sớm (sớm hoàn thiện thể chế - sớm khởi động dự án trọng điểm - sớm bố trí vốn) và 5 rõ (rõ việc, rõ người, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả) và triển khai ngay các nội dung nghị quyết trong thời gian sớm nhất ở tất cả các cấp”.
Tổng Bí thư đề nghị mỗi bộ, ngành, địa phương, mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, đảng viên bắt tay ngay vào việc với tinh thần "nói đi đôi với làm", "việc hôm nay không để ngày mai". Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về kết quả, không đùn đẩy, không né tránh. Từng quý, từng năm, chúng ta kiểm điểm nghiêm túc, công khai minh bạch, khen thưởng xứng đáng người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; đồng thời xử lý nghiêm sai phạm, tiêu cực.
Tổng Bí thư yêu cầu: "Mỗi người một việc cụ thể, mỗi ngày một kết quả cụ thể, kiên trì, bền bỉ, có phương pháp, có kỷ luật, có sáng tạo. Hãy làm cho tinh thần các nghị quyết được triển khai hôm nay thấm vào mọi cấp, mọi ngành, vào mọi thành phần xã hội, tới từng phường xã, làng bản, thôn xóm, tới từng lớp học, từng phân xưởng, từng cánh đồng, từng ngôi nhà, từng người dân; biến khát vọng thành hành động, biến hành động thành kết quả, biến kết quả thành niềm tin mới".
Đây thực sự là những thông điệp cực kỳ mạnh mẽ gửi đến toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Với những yêu cầu mà Tổng Bí thư đặt ra tại Hội nghị quán triệt 4 Nghị quyết, có thể thấy rằng, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đang rất sốt ruột và lo lắng trước tình trạng nhiều cán bộ của chúng ta mắc một căn bệnh trầm kha, đó là nói thì hay nhưng không làm.
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị, sáng 16/9/2025.
Tình trạng cán bộ giỏi chơi môn “bóng chuyền” đang phổ biến, nghĩa là, họ không dám quyết một cái gì cả, khi ở cơ sở có yêu cầu thì họ chuyển hết ban nọ, phòng kia, vụ này, cục khác; bộ A rồi bộ B...
Nếu chỉ cần phê để chuyển đi chuyển lại thế này thì cần gì phải đến thứ trưởng, bộ trưởng; cần gì phải chủ tịch nọ, bí thư kia; cần gì phải học hàm, học vị cho thật cao, thật rộng?... Một khi cơ sở đã phải gửi văn bản lên cấp trên xin ý kiến chỉ đạo, có nghĩa là họ muốn cấp trên phải có ý kiến cụ thể, rằng việc này làm được hay không; nếu không thì vì sao? Còn nếu làm được thì phải có những yêu cầu gì? Để đáp ứng được những yêu cầu đó thì đòi hỏi những điều kiện gì?... Cấp dưới luôn mong muốn cấp trên phải có chính kiến, phải chỉ cho họ cách xử lý những vấn đề đang ách tắc, đang cản trở… Cấp dưới luôn mong muốn cấp trên không những có ý kiến sáng suốt mà còn là chỗ dựa cho họ yên tâm thực hiện.
Tổng Bí thư cũng kêu gọi cán bộ phải nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Thực tế cho thấy, từ khi Đảng, Nhà nước bắt đầu sự nghiệp đổi mới, chúng ta chuyển từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN thì đã xuất hiện nhiều tấm gương cán bộ dám nghĩ dám làm. Có thể khẳng định rằng, những dự án kinh tế lớn nhất đất nước này đều thành công nhờ tinh thần dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Tôi xin đơn cử một ví dụ, đó là dự án Biển Đông 01 của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam). Dự án này nằm trên Biển Đông, có điều kiện địa chất khó bậc nhất thế giới với áp suất cực kỳ cao, nhiệt độ đến 170 độ C, với những mỏ khí và dầu condensate có điều kiện thế này, trên thế giới không mấy doanh nghiệp dám làm vì quá nguy hiểm.
Tập đoàn BP (Anh) mất tới 9 năm nghiên cứu dự án này với chi phí 500 triệu USD; cuối cùng họ đành bỏ và giao lại cho Petrovietnam hơn... 4 tấn hồ sơ. Nhưng, Petrovietnam dám đề xuất Chính phủ cho làm dự án với 2 lý do: thứ nhất về hiệu quả kinh tế, thứ hai là góp phần bảo vệ chủ quyền biển. Được sự đồng ý của Chính phủ, Petrovietnam đã dốc sức vào làm dự án này và đã thành công mỹ mãn. Hiện nay, dự án đang là “con gà đẻ trứng vàng” với doanh thu khoảng 300 triệu USD/tháng.
Bây giờ nhìn lại, những cán bộ trực tiếp tham gia làm dự án này thời đó chia sẻ rằng họ dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì mục đích cao cả: hiệu quả kinh tế cho đất nước.
Mới đây, trong một bài viết của mình, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tâm sự: “Tôi cũng không nhớ bao nhiêu lần đến các dự án trọng điểm của Petrovietnam trong suốt 10 năm làm Thủ tướng, nhưng với những khó khăn mà lãnh đạo Petrovietnam đưa ra khi thực hiện những dự án lớn như dự án Biển Đông 01 thì tôi luôn luôn tìm cách giải quyết một cách nhanh nhất. Sở dĩ, có nhiều rào cản đối với công việc của Petrovietnam trong việc thực hiện các dự án, đó chính là các cơ chế, chính sách của chúng ta thời ấy không còn phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp, thậm chí là rào cản lớn nhưng việc gỡ bỏ đâu có đơn giản. Chính vì vậy, tôi phải luôn luôn động viên lãnh đạo Petrovietnam các thời kỳ đó mỗi khi họ có những quyết sách “vượt rào” là: “Cứ làm đi, mình không tư túi thì không có gì phải ngại, và phải lấy tiến độ công trình, chất lượng làm mục tiêu. Chính phủ và Thủ tướng luôn đứng sau lưng lãnh đạo Petrovietnam. Có thắc mắc gì, có khó khăn gì, tôi sẽ trực tiếp giải quyết”. Sau này, nhiều lãnh đạo Petrovietnam cũng đã tâm sự với tôi là ngày ấy nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ thì nhiều dự án của Petrovietnam đã không thể thực hiện được - như dự án Biển Đông 01, dự án đóng các giàn khoan tự nâng, dự án lọc dầu Dung Quất...”.
Một trong những nguyên nhân để cán bộ hiện nay rụt rè, nhút nhát và không muốn chịu trách nhiệm trước chữ ký của mình, đó chính là họ sẽ phải trả giá quá đắt cho những quyết định có tính chất “lách luật”, “xé rào”.
Nói một cách thẳng thắn, người dám nghĩ, dám làm chính là người dám vượt qua những quy định đã lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển chung; khi họ dám làm mà “được việc”, dự án thành công thì được khen là người dũng cảm, người quyết đoán, còn khi dự án có vấn đề hoặc cơ quan có thẩm quyền đối chiếu việc họ làm với những quy định hiện hành thì những quyết định của họ sẽ bị mang tiếng là “lạm quyền”, “gia trưởng”, “độc đoán”...
Bây giờ không thể đếm được ở Việt Nam có bao nhiêu dự án treo, bao nhiêu dự án đang thi công dang dở đang gây nên sự lãng phí khủng khiếp về tiền, về thời gian mà còn dẫn theo nhiều hệ lụy khác; nhưng xem ra chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về sự lãng phí này cả.
Thiết nghĩ, nếu chúng ta muốn có những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thì điều quan trọng là khi xem xét cần phải có sự đánh giá tổng thể về hiệu quả của việc đã làm hoặc của dự án. Người ký quyết định có thể chưa đúng điều này điều khác theo quy định pháp luật; nhưng nếu dự án đó, công trình đó đảm bảo chất lượng, đảm bảo tiến độ, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp, cho địa phương thì cần phải được đánh giá công bằng giữa “Công” và “Tội”.
Còn nếu như trong mười việc họ làm, có chín việc đúng nhưng chỉ một việc sai mà xóa sạch công lao cố gắng của họ thì đó thực sự là điều bất công và sẽ không bao giờ có ai “dám nghĩ, dám làm”.
Cho nên, nếu chúng ta muốn có một đội ngũ cán bộ có khát vọng kiến quốc, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, dám nghĩ dám làm thì cần phải có sự cởi mở, công bằng trong việc đánh giá cán bộ.
Nguyễn Như Phong