Vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở vốn đầu tư hay nguồn nhân lực, mà còn là những rào cản pháp lý và chính sách chưa đồng bộ, tạo ra nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư.
Nhu cầu chữa lành thân-tâm-trí
Theo báo cáo của Viện Sức khỏe Toàn cầu (Global Wellness Institute - GWI), thị trường du lịch chăm sóc sức khỏe toàn cầu đã vượt mốc 800 tỷ USD vào năm 2024, với tốc độ tăng trưởng vượt trội so với du lịch truyền thống.
Trong khi đó, du lịch Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào các loại hình khám phá, văn hóa và ẩm thực. Các dịch vụ du lịch chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là các mô hình cao cấp và chuyên sâu, vẫn còn rất khiêm tốn. Sự chậm chân này thể hiện rõ khi so sánh với Thái Lan, quốc gia đã xây dựng thương hiệu "thiên đường wellness" với các khu nghỉ dưỡng cao cấp, spa trị liệu chuyên nghiệp và các gói dịch vụ Đông y kết hợp hiện đại.
Số liệu thống kê cho thấy, trước dịch Covid-19, Thái Lan từng đón 3,42 triệu lượt khách quốc tế đến với mục đích chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, mang về doanh thu 140 tỷ Baht. Sau đại dịch, ngành này đã phục hồi mạnh mẽ. Đến năm 2021, du lịch y tế đã mang lại doanh thu 11,9 tỷ Baht, tăng 47% so với năm 2020. Doanh thu năm 2023 đạt 25 tỷ Baht (tương đương hơn 700 triệu USD), và doanh thu năm 2024 đạt gần 3 tỷ USD cho thấy sự phục hồi và tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ của ngành này ở đất nước Thái Lan.
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ, thị trường du lịch chăm sóc sức khỏe của Thái Lan được đánh giá có tốc độ tăng trưởng cao, với dự báo có thể đạt 45,01 tỷ USD vào năm 2032.
Còn tại Việt Nam, theo một số báo cáo và thống kê từ các cơ quan du lịch và y tế, mỗi năm, Việt Nam đón khoảng 300.000 lượt khách quốc tế đến khám, chữa bệnh, trong đó khoảng 40% tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu từ du lịch y tế của Việt Nam năm 2024 mới đạt khoảng 0,7 tỷ USD.
Nhiều HTX đã tham gia ngành du lịch chăm sóc sức khỏe.
Lương y Phan Cao Bình cho rằng mô hình này cần được ứng dụng rộng rãi bởi ngành du lịch thế giới đang chứng kiến sự bùng nổ của xu hướng du lịch chăm sóc sức khỏe. Du khách ngày nay không chỉ muốn khám phá cảnh quan mà còn tìm kiếm sự thư giãn, phục hồi năng lượng và chữa lành thân-tâm-trí. Nếu Việt Nam không tận dụng được hết thế mạnh của mình thì không chỉ khó thu hút khách du lịch mà còn chưa làm gia tăng được giá trị cho ngành dược liệu, y học cổ truyền.
Trong khi, các chuyên gia và tổ chức nghiên cứu thị trường dự báo quy mô thị trường du lịch y tế tại Việt Nam có thể đạt khoảng 4 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng trung bình 18% mỗi năm.
Trong bối cảnh đó, các Hợp tác xã (HTX) đang dần trở thành những người tiên phong, khai thác mô hình du lịch chăm sóc sức khỏe, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi. Các mô hình kinh tế tập thể này đang tận dụng thế mạnh về cảnh quan thiên nhiên và dược liệu bản địa để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo.
Như HTX cộng đồng Dao Đỏ (Lào Cai) với lợi thế là người Dao đỏ, các thành viên HTX đã liên kết các hộ gia đình, chuẩn hóa quy trình thu hái, chế biến các loại lá thuốc quý và tổ chức các tour du lịch trải nghiệm văn hóa, tắm lá thuốc, giúp du khách thư giãn và phục hồi sức khỏe. Mô hình này không chỉ giúp bảo tồn y học cổ truyền mà còn tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
Ngoài ra còn có HTX trà an toàn Phú Đô (Thái Nguyên), HTX Sinh Dược (Ninh Bình), HTX du lịch cộng đồng xã Tân Lập (Tuyên Quang)… cũng đã xây dựng các gói tour du lịch kết hợp chăm sóc sức khỏe. Du khách có thể tham gia vào các hoạt động thiền định, yoga, và đặc biệt là các liệu pháp mát-xa, xông hơi bằng thảo dược do chính người dân bản địa thực hiện. Các loại thảo dược được trồng và thu hái ngay tại vườn dược liệu của HTX, đảm bảo nguồn gốc và chất lượng.
Những mô hình HTX này chính là minh chứng cho tiềm năng của du lịch chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Tuy nhiên, họ vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản.
Tháo 'rào cản' trong kinh doanh
Một trong những rào cản lớn nhất khiến du lịch chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam chưa tận dụng hết tiềm năng chính là khung pháp lý thiếu rõ ràng và chồng chéo.
Các nhà đầu tư gặp phải rủi ro pháp lý và khó khăn trong việc tuân thủ các quy định pháp luật. Bởi Spa thông thường chỉ được phép thực hiện các dịch vụ không xâm lấn, không sử dụng thuốc, không có các thủ thuật y khoa. Loại hình này không cần giấy phép hoạt động khám chữa bệnh.
Còn đối với cơ sở khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền có các dịch vụ như xoa bóp bấm huyệt, châm cứu, sử dụng dược liệu đặc trị để trị liệu, nó có thể bị xem là cơ sở khám chữa bệnh. Khi đó, cơ sở phải tuân thủ các quy định rất khắt khe về nhân sự (có bác sĩ y học cổ truyền hoặc người có chứng chỉ hành nghề), cơ sở vật chất (phòng xoa bóp, buồng tắm, thiết bị y tế cơ bản) và quy trình kỹ thuật.
Sự thiếu ranh giới rõ ràng này dẫn đến rủi ro pháp lý cao và làm chậm sự phát triển của mô hình tiềm năng này. Và các HTX cũng mới dừng ở các mô hình du lịch chăm sóc sức khỏe đơn thuần, không xâm lấn.
Bà Tẩn Tả Mẩy, Giám đốc HTX cộng đồng Dao Đỏ, cho biết để xây dựng một trung tâm chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp, HTX cần nguồn vốn lớn để đầu tư vào cơ sở vật chất hiện đại, phòng ốc tiêu chuẩn, thiết bị y tế. HTX vốn hoạt động trên tinh thần tự nguyện, liên kết giữa các hộ nông dân, thường có nguồn vốn hạn chế, chủ yếu từ góp vốn của các thành viên. Bên cạnh đó, việc cung cấp các dịch vụ trị liệu y học cổ truyền như châm cứu, xoa bóp bấm huyệt chuyên sâu yêu cầu HTX phải có giấy phép hoạt động khám chữa bệnh. Để có được giấy phép này, HTX phải đáp ứng các tiêu chí khắt khe về nhân sự (phải có bác sĩ y học cổ truyền, người có chứng chỉ hành nghề), cơ sở vật chất (phòng xoa bóp, buồng tắm, thiết bị y tế cơ bản) và quy trình kỹ thuật.
Thêm vào đó, việc phân loại dịch vụ và giấy phép kinh doanh cũng gây nhiều khó khăn. Một nhà đầu tư muốn kết hợp giữa dịch vụ du lịch và chăm sóc sức khỏe phải đối mặt với nhiều thủ tục hành chính phức tạp từ các bộ, ngành khác nhau như Bộ Y tế, Bộ Du lịch và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính).
Sự thiếu đồng bộ trong các quy định và tiêu chuẩn khiến quá trình xin cấp phép trở nên rắc rối, mất nhiều thời gian và chi phí, làm nản lòng các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc quảng cáo các dịch vụ cũng tiềm ẩn rủi ro. Nhiều spa quảng cáo là "trị liệu" hoặc "chữa bệnh" nhưng không có giấy phép khám chữa bệnh, dẫn đến nguy cơ bị phạt nặng hoặc buộc phải đóng cửa. Sự thiếu minh bạch này không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp mà còn làm giảm niềm tin của khách hàng.
Để giải quyết những vấn đề này, giới chuyên gia cho rằng Chính phủ nên sớm ban hành một khung pháp lý rõ ràng, phân định ranh giới giữa dịch vụ làm đẹp thông thường và dịch vụ trị liệu y học cổ truyền. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan để tạo ra một hệ thống chính sách xuyên suốt, khuyến khích sự phát triển của mô hình du lịch kết hợp chăm sóc sức khỏe. Việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi và chuyển giao công nghệ sẽ giúp ngành này có cơ hội "cất cánh".
Nhìn sang các nước khác có thể thấy, thành công của Thái Lan không phải là ngẫu nhiên, mà là kết quả của một chiến lược quốc gia bài bản. Chính phủ Thái Lan đã công bố "Kế hoạch phát triển du lịch quốc gia lần thứ ba giai đoạn 2023-2027", với mục tiêu lọt vào "Top 5" điểm đến hàng đầu thế giới về du lịch sức khỏe. Các chính sách cụ thể đã được đất nước này triển khai như "Sức khỏe để giàu có" (Health for Wealth), tập trung vào việc cải thiện dịch vụ chăm sóc y tế và y học cổ truyền để củng cố nền kinh tế.
Thái Lan cũng đã đầu tư mạnh vào hệ thống y tế và spa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nước này có tới hơn 1.000 bệnh viện, trong đó có hơn 68 bệnh viện đạt chứng nhận của Tổ chức Giám định Chất lượng Bệnh viện Quốc tế (JCI). Điều này đảm bảo chất lượng và sự an toàn cho du khách quốc tế khi làm dịch vụ.
Còn tại Việt Nam, Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị, ban hành ngày 9 tháng 9 năm 2025, đang mở ra nhiều cơ hội quan trọng cho ngành dược liệu và y học cổ truyền. Bởi Nghị quyết này đặt ra nhiều mục tiêu và giải pháp đột phá, trong đó y học cổ truyền và dược liệu được xác định là một trong những lĩnh vực trọng tâm. Trong đó, một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng của Bộ Chính trị là xác định đúng vị thế, vai trò của y học cổ truyền, chuyển mạnh từ tư duy tập trung khám chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe toàn diện với nhiều giải pháp thiết thực.
Hy vọng rằng từ đây, hệ thống y học nói chung, y học cổ truyền của Việt Nam tiếp tục phát triển, từ đó tạo điện kiện cho dịch vụ du lịch chăm sóc sức khỏe phát huy được tiềm năng.
Huyền Trang