Để thu hút nhân tài, chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khoa học, công nghệ về Việt Nam làm việc, cần đột phá cả về cơ chế, chính sách lẫn tư duy quản trị.
Cơ chế đãi ngộ linh hoạt, vượt khung lương, cấp nhà
Tại họp báo thường kỳ diễn ra chiều 5/8, ông Mai Ánh Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Khoa học và Công nghệ trao đổi, trả lời câu hỏi của VietTimes về chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài.
Ông Hồng cho biết Bộ Nội vụ đang phối hợp với Bộ KH&CN và các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc vào tháng 8/2025. Đồng thời, Bộ được giao nhiệm vụ triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050, hoàn thành vào tháng 9/2025.
Nhắc tới khung pháp lý hiện hành, lãnh đạo Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ KH&CN cho biết các luật vừa được thông qua như Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp công nghệ số đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng, công nhận, trao quyền cho nhà khoa học về sở hữu trí tuệ, tài chính, và quyền khai thác thương mại.
Ông Mai Ánh Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ KH&CN.
Hiện đã có thể thiết lập chính sách đãi ngộ tài chính và phi tài chính hấp dẫn hơn cho nhân tài, nhân lực chất lượng cao về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Việt Nam đã có thể triển khai "cơ chế đãi ngộ linh hoạt, kể cả cơ chế vượt khung lương nhằm thu hút, giữ chân và phát huy nhân tài, đặc biệt là chuyên gia người Việt ở nước ngoài", ông Mai Ánh Hồng nói.
3 thách thức trong thu hút nhân tài KHCN
Tuy vậy, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cũng chỉ ra 3 điểm thách thức chính trong việc thu hút nhân tài trong lĩnh vực.
Thứ nhất, tính đồng bộ và khả năng thực thi:
Ông Hồng cho rằng mặc dù các Luật mới đã được ban hành, nhưng việc triển khai các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết và đảm bảo tính đồng bộ với các quy định khác (Luật Ngân sách, Luật Viên chức...) là rất quan trọng. Đồng thời, các quy định sẽ không phát huy hiệu quả nếu trình tự, thủ tục còn rườm rà, thiếu linh hoạt.
Thứ hai, chính sách đãi ngộ tài chính và phi tài chính:
Mặc dù có những cải thiện, nhưng mức độ đãi ngộ tài chính cho nhà khoa học tại Việt Nam chưa cạnh tranh so với các quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, các yếu tố phi tài chính như môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, cơ sở vật chất, văn hóa làm việc, cơ hội phát triển sự nghiệp là những yếu tố quan trọng cần được cải thiện đồng bộ.
Thứ ba, cơ chế đãi ngộ linh hoạt, vượt khung nhưng còn mang tính nguyên tắc:
"Các Luật mới mở ra cơ chế 'vượt khung', nhưng mức độ cụ thể và phạm vi áp dụng của cơ chế này trong thực tiễn cần được quy định rõ trong các văn bản hướng dẫn triển khai, thực hiện Luật", ông Mai Ánh Hồng nói.
Một trong những điểm nổi bật của cơ chế thu hút nhân tài của các nước hàng đầu về KHCN là việc đầu tư mạnh vào các viện nghiên cứu và trường đại học hàng đầu.
Xây dựng điều kiện làm việc ưu việt, cơ hội phát triển sự nghiệp rõ ràng
"Việc vượt khung lương, cấp nhà ở, điều kiện làm việc không nên xem là đặc ân mà là điều kiện tối thiểu để những người có khả năng tạo đột phá yên tâm làm việc", ông Hồng cho biết và khẳng định nhân lực chất lượng cao, nhân tài là yếu tố quyết định, không thể thu hút bằng chính sách cứng nhắc.
Để cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp Công nghệ số, ông Mai Ánh Hồng cho biết Bộ KH&CN đang tập trung triển khai 7 đầu việc.
Thứ nhất, xây dựng và ban hành các quy định cụ thể về cơ chế chấp nhận rủi ro; cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KH&CN công lập; chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển công nghiệp bán dẫn; chính sách thu hút, sử dụng và trọng dụng đối với nhân tài, nhân lực chất lượng cao và quy định về phân chia lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
Thứ hai, xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện Đề án "Phát triển, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia"; phát triển các chương trình quốc gia có mục tiêu cụ thể để thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về làm việc, cũng như các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm.
Các chương trình này có thể bao gồm gói hỗ trợ tài chính đặc biệt, điều kiện làm việc ưu việt, và cơ hội phát triển sự nghiệp rõ ràng.
Thứ ba, đầu tư vào hạ tầng và môi trường nghiên cứu, nâng cấp các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, xây dựng các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ để tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo và đổi mới.
Thứ tư, thúc đẩy liên kết giữa nghiên cứu và doanh nghiệp. Trong đó, khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào R&D, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để ứng dụng kết quả khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; phát triển thị trường cho các sản phẩm KH&CN.
Thứ năm, thúc đẩy hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ nhằm tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào các dự án quốc tế, các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu, đồng thời thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đặt trung tâm R&D tại Việt Nam.
Thứ sáu, giảm thiểu các rào cản hành chính, đảm bảo quyền tự chủ tối đa cho nhà khoa học, cung cấp nguồn lực (tài chính, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu) bảo đảm cho nghiên cứu và thử nghiệm.
Thứ bảy, đánh giá dựa trên hiệu quả và sản phẩm, thay vì nặng về quy trình, tập trung vào kết quả đầu ra, các công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản phẩm thương mại hóa có giá trị.
Anh Lê