Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới

Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới
3 giờ trướcBài gốc
Bà Sinwon Park, Giám đốc của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam. Ảnh: CTV
Phóng viên Báo Hànôịmới đã có cuộc phỏng vấn bà Sinwon Park, Giám đốc của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam về những nội dung này.
- Trước tiên, bà đánh giá như thế nào về những tiến bộ của Việt Nam trong thúc đẩy bình đẳng giới?
- Những năm gần đây, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới. Đây là một trong những lĩnh vực có bước chuyển tích cực nhờ các cải cách pháp luật mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực lao động, việc làm, cùng với đầu tư bền vững cho an sinh xã hội và giáo dục.
Nền tảng quan trọng của những tiến bộ này là hệ thống pháp luật, chính sách tương đối toàn diện, được xây dựng trên cơ sở các cam kết quốc tế của Việt Nam, trong đó có Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước số 111 của ILO về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, và Công ước số 100 về trả công bình đẳng.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 nghiêm cấm phân biệt đối xử trong các lĩnh vực trọng tâm, đồng thời quy định nam, nữ được đối xử bình đẳng trong lao động, tiền lương và bảo hiểm xã hội; đặc biệt yêu cầu lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật. Trong giai đoạn 2015-2020, Việt Nam có 40/111 văn bản pháp luật được ban hành đáp ứng yêu cầu lồng ghép giới, thể hiện cam kết ngày càng rõ nét của các cơ quan nhà nước.
Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi là một dấu mốc quan trọng khác, khi bãi bỏ các hạn chế lâu nay đối với việc làm của lao động nữ ở một số ngành, nghề; bổ sung quy định cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc; đồng thời thu hẹp khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ. Những thay đổi này góp phần tăng cường bảo vệ pháp lý và mở rộng cơ hội tham gia thị trường lao động cho phụ nữ.
Bên cạnh đó, việc ban hành Luật Dân số đã tiếp tục củng cố bình đẳng giới, khẳng định quyền sinh sản và quyền lựa chọn của mỗi cá nhân, đặc biệt trong các quyết định liên quan đến gia đình và chăm sóc.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới. Ảnh: CTV
Cùng với đó, cải cách an sinh xã hội cũng đóng vai trò quan trọng. Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, được thông qua tháng 6-2024 và có hiệu lực từ tháng 7-2025, mở rộng diện bao phủ và nâng cao mức hưởng. Việc rút ngắn thời gian đóng tối thiểu để hưởng lương hưu, mở rộng bảo hiểm xã hội bắt buộc tới các nhóm mới như chủ hộ kinh doanh, lao động bán thời gian… sẽ mang lại lợi ích lớn cho phụ nữ - nhóm chiếm tỷ lệ cao trong khu vực phi chính thức.
Đồng thời, Việt Nam tiếp tục mở rộng bảo vệ thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, qua đó giữ vững vị thế là một trong những quốc gia có chính sách thai sản ưu việt nhất ASEAN về thời gian nghỉ và mức hưởng.
Trong giáo dục, Việt Nam đã đạt được bình đẳng giới ở bậc trung học cơ sở. Năm 2022, tỷ lệ hoàn thành bậc học này của nữ sinh đạt 102,3% và nam sinh đạt 98,4%, tạo nền tảng vững chắc cho phụ nữ tham gia việc làm có kỹ năng và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong tương lai.
Những nỗ lực trong nước cũng được ghi nhận trên trường quốc tế. Năm 2023, Việt Nam tăng 11 bậc trong Chỉ số khoảng cách giới toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, xếp thứ 72/146 quốc gia và đứng thứ ba trong ASEAN.
Tổng thể, Việt Nam đã xây dựng được nền tảng quan trọng cho bình đẳng giới. Giai đoạn tới cần tập trung chuyển hóa các thành quả này thành kết quả thực chất hơn trên thị trường lao động, bảo đảm phụ nữ không chỉ có việc làm mà còn được tiếp cận việc làm bền vững, chất lượng và cơ hội thăng tiến bình đẳng.
- Trên thực tế, những rào cản nào đang cản trở sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động, thưa bà?
Đối với khu vực nông thôn, phụ nữ cần tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị hoặc đa dạng hóa sinh kế. Ảnh: CTV
- Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, phụ nữ Việt Nam vẫn đối mặt với các rào cản mang tính cấu trúc trong quá trình tham gia và phát triển nghề nghiệp. Một thách thức dai dẳng là sự phân bổ không bình đẳng công việc chăm sóc không được trả lương. Phụ nữ dành gần gấp đôi thời gian so với nam giới cho công việc gia đình và chăm sóc - khoảng 20,2 giờ/tuần so với 10,7 giờ. “Gánh nặng kép” này phản ánh các chuẩn mực xã hội còn tồn tại và sự thiếu hụt dịch vụ chăm sóc, làm hạn chế thời gian, khả năng di chuyển và cơ hội tiếp cận việc làm chất lượng, đào tạo hay vị trí lãnh đạo của phụ nữ.
Khoảng cách tiền lương theo giới và phân tầng nghề nghiệp cũng là rào cản lớn. Trung bình, thu nhập hằng tháng của phụ nữ thấp hơn nam giới khoảng 13,8%. Phụ nữ tập trung nhiều ở các ngành, lĩnh vực có mức lương thấp như dệt may và khu vực phi chính thức như nông nghiệp - nơi điều kiện làm việc và thu nhập thường dưới mức trung bình quốc gia; trong khi nam giới chiếm ưu thế ở các ngành có thu nhập cao hơn như tài chính, công nghệ thông tin, xây dựng. Sự phân tách này tạo ra bất bình đẳng kéo dài trong suốt vòng đời lao động.
Rào cản trong thăng tiến nghề nghiệp cũng còn rõ nét. Năm 2023, phụ nữ chỉ nắm giữ 21,8% vị trí quản lý cấp trung và cấp cao tại Việt Nam, phản ánh tác động tổng hợp của thông lệ nơi làm việc, định kiến xã hội và hạn chế trong tiếp cận mạng lưới, cố vấn nghề nghiệp.
Ngoài ra, sự chênh lệch về kỹ năng cũng là vấn đề đáng lưu ý. Dù đạt trình độ học vấn cao, phụ nữ lại hạn chế về kỹ năng kỹ thuật, nghề nghiệp; mức độ tham gia vào các lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học) còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các công việc có giá trị gia tăng cao trong nền kinh tế đang chuyển đổi nhanh.
Giải quyết những thách thức này đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể, có lồng ghép giới, kết hợp chính sách thị trường lao động, an sinh xã hội, dịch vụ chăm sóc, phát triển kỹ năng và củng cố thể chế, nhằm bảo đảm phụ nữ có thể đóng góp đầy đủ và hưởng lợi công bằng từ quá trình phát triển kinh tế.
- Thưa bà, từ các khoảng trống hiện nay, ILO khuyến nghị những giải pháp nào để giảm bất bình đẳng giới tại Việt Nam?
- Để thu hẹp các khoảng cách còn tồn tại, ILO khuyến nghị Việt Nam áp dụng cách tiếp cận toàn diện, hướng tới xử lý các bất bình đẳng mang tính cấu trúc trên thị trường lao động.
Thứ nhất, khuôn khổ pháp luật cần tiến xa hơn bình đẳng hình thức để đạt được bình đẳng thực chất. Bên cạnh nền tảng vững chắc hiện có, pháp luật cần quy định rõ hơn các căn cứ không phân biệt đối xử và áp dụng các biện pháp đặc thù như chỉ tiêu, hạn ngạch hoặc hỗ trợ ưu tiên nhằm khắc phục bất lợi kéo dài, phù hợp với tinh thần của Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Thứ hai, chính sách cần thay đổi cách tiếp cận đối với công việc chăm sóc không được trả lương, coi phát triển kinh tế chăm sóc là trụ cột của tăng trưởng bao trùm và trao quyền cho phụ nữ. Đầu tư vào các dịch vụ chăm sóc chất lượng, chi phí hợp lý sẽ vừa giảm gánh nặng cho phụ nữ, vừa tạo việc làm, nâng cao tính chính thức và thu nhập trong khu vực chăm sóc. Khung chính sách “5R” của ILO - Công nhận, Giảm thiểu, Phân bổ lại, Đền đáp và Đại diện - là định hướng hữu ích cho mục tiêu này.
Thứ ba, chính sách việc làm cần gắn kết chặt chẽ hơn với chiến lược phát triển kinh tế, ngành và tăng trưởng xanh, bảo đảm phụ nữ tiếp cận được các việc làm mới, có giá trị cao. Lồng ghép giới theo Hướng dẫn Chuyển đổi công bằng của ILO là yếu tố then chốt để quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh không làm gia tăng khoảng cách giới. Phát triển kỹ năng, nhất là cho phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ trẻ và phụ nữ lớn tuổi, cần được ưu tiên.
Cuối cùng, dữ liệu đầy đủ và thể chế vững mạnh là điều kiện thiết yếu cho hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng. Dữ liệu thị trường lao động cần được phân tách theo giới và các đặc điểm khác; đồng thời nâng cao năng lực của các tổ chức dịch vụ việc làm trong kết nối phụ nữ với việc làm bền vững.
Những giải pháp này sẽ giúp Việt Nam chuyển từ cam kết pháp lý mạnh mẽ sang thay đổi mang tính hệ thống, khai thác đầy đủ tiềm năng của phụ nữ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bao trùm, bền vững.
- Từ góc nhìn của phụ nữ, theo bà, họ có thể làm gì để cải thiện cơ hội việc làm và tăng thu nhập, hướng tới tự chủ kinh tế?
Phụ nữ cần chủ động khai thác các dịch vụ và nguồn lực hiện có như dịch vụ việc làm, tư vấn nghề nghiệp. Ảnh: CTV
- Để đạt được tự chủ kinh tế trong bối cảnh hiện nay, phụ nữ cần kết hợp lựa chọn chiến lược, học tập suốt đời và chủ động tận dụng các cơ hội sẵn có, đồng thời cần sự hỗ trợ từ chính sách và thể chế.
Trước hết, đầu tư vào kỹ năng ngày càng trở nên then chốt. Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ, được khuyến khích tham gia các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học, kỹ năng số và kỹ năng việc làm - những lĩnh vực mở ra cơ hội tiếp cận việc làm có giá trị cao và bền vững hơn.
Đối với phụ nữ đang làm việc, học tập suốt đời là yếu tố quyết định để thích ứng với thay đổi của ngành nghề và quá trình già hóa dân số. Ở khu vực nông thôn, việc nâng cao kỹ năng nền tảng, kỹ thuật và sẵn sàng việc làm sẽ hỗ trợ chuyển dịch khỏi các công việc thu nhập thấp, thiếu ổn định.
Bên cạnh đó, phụ nữ cần chủ động khai thác các dịch vụ và nguồn lực hiện có như dịch vụ việc làm, tư vấn nghề nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp, tín dụng và thông tin thị trường. Đối với khu vực nông thôn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị hoặc đa dạng hóa sinh kế ngoài nông nghiệp cũng là hướng đi hiệu quả để tăng thu nhập.
Quản lý trách nhiệm chăm sóc không được trả lương vẫn là thách thức lớn. Trong khi cần sự đầu tư rộng hơn vào dịch vụ chăm sóc và chính sách thân thiện với gia đình, phụ nữ có thể tận dụng các dịch vụ sẵn có và tìm kiếm môi trường làm việc linh hoạt. Tuy nhiên, trách nhiệm cân bằng giữa công việc được trả lương và không được trả lương phải được chia sẻ giữa gia đình, doanh nghiệp và xã hội.
Cuối cùng, nỗ lực cá nhân của phụ nữ sẽ phát huy hiệu quả cao nhất khi được đặt trong môi trường chính sách nhạy cảm giới, tạo việc làm chất lượng và hệ thống an sinh xã hội vững mạnh. Trao quyền kinh tế cho phụ nữ không chỉ là câu chuyện thành công cá nhân, mà còn là động lực trung tâm của tăng trưởng kinh tế bao trùm và bền vững của Việt Nam.
- Trân trọng cảm ơn bà!
Đình Hiệp thực hiện
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/viet-nam-dat-duoc-nhieu-tien-bo-dang-ghi-nhan-trong-binh-dang-gioi-727212.html