Chiều tối 16/9, vào lúc 18h30 theo giờ Việt Nam, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã tổ chức lễ công bố Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2025 tại Geneva (Thụy Sĩ). Theo đó, Việt Nam được xếp hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, duy trì thứ hạng năm 2024.
Đặc biệt, năm 2025, Việt Nam lần đầu tiên đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng hóa sáng tạo, đồng thời tiếp tục dẫn đầu ở 2 chỉ số nhập khẩu công nghệ cao và xuất khẩu công nghệ cao. Một số chỉ số khác cũng đạt vị trí cao như: tốc độ tăng năng suất lao động (hạng 4), số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (hạng 7), tỷ trọng chi R&D do doanh nghiệp trang trải (hạng 8).
Ông Daren Tang - Tổng Giám đốc WIPO - trong Lễ công bố báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025. (Ảnh chụp màn hình)
Cụ thể, báo cáo cho biết, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 3 bậc so với năm 2023, từ vị trí 53 lên 50 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của doanh nghiệp).
Đầu ra đổi mới sáng tạo vẫn có thứ hạng tốt hơn đầu vào đổi mới sáng tạo dù thứ hạng giảm 1 bậc so với 2024, từ vị trí 36 xuống 37 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, Sản phẩm sáng tạo).
Theo Báo cáo GII, Việt Nam duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam vượt lên trên Thái Lan, đứng thứ 3 sau Singapore và Malaysia.
Trong Báo cáo GII 2025 của WIPO, Việt Nam được WIPO ghi nhận là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất tính từ năm 2013 (gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Iran, Ma-rốc, Albania và Thổ Nhĩ Kỳ). Việt Nam cũng là một trong 2 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 15 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ và Việt Nam).
Bảng xếp hạng Chỉ số ĐMST từ năm 2013 của WIPO. (Ảnh chụp màn hình)
Ở nhóm đầu vào, nhiều chỉ số cải thiện rõ rệt: Sự ổn định chính sách môi trường kinh doanh tăng 14 bậc (hạng 28), hiệu quả thực thi pháp luật tăng 5 bậc (hạng 67), mức thuế quan bình quân tăng 28 bậc (hạng 20), mức độ đa dạng sản xuất trong nước tăng 10 bậc (hạng 13), tỷ lệ lao động nữ có trình độ kỹ thuật cao tăng 7 bậc (hạng 81), tỷ lệ đồng xuất bản nghiên cứu viện – trường – doanh nghiệp tăng 15 bậc (hạng 51).
Ở nhóm đầu ra, nhiều chỉ số cũng cải thiện tích cực: Số đơn đăng ký sáng chế PCT tăng 17 bậc (hạng 74), chi cho phần mềm máy tính tăng 7 bậc (hạng 56), tính phức tạp của sản xuất và xuất khẩu tăng 9 bậc (hạng 52), số chứng chỉ ISO 9001 tăng 4 bậc (hạng 58), mật độ tài sản vô hình tăng 3 bậc (hạng 54), số lượt chỉnh sửa mã nguồn trên Github tăng 8 bậc (hạng 48).
Dù có nhiều tiến bộ, Việt Nam vẫn còn một số điểm yếu cần chú trọng. Ở trụ cột thể chế, chất lượng các quy định pháp luật chỉ xếp hạng 95, hiệu quả thực thi pháp luật ở mức 67. Trong lĩnh vực giáo dục, chi cho giáo dục (tính theo % GDP) giảm 10 bậc xuống hạng 116, tỷ lệ học sinh/giáo viên trung học xếp hạng 107, khả năng thu hút sinh viên quốc tế ở mức thấp (hạng 108).
Ở trụ cột hạ tầng, nhóm chỉ số ICT vẫn hạn chế với hạng 69, trong đó truy cập ICT đứng thứ 77, sử dụng ICT hạng 54. Chỉ số bền vững sinh thái giảm mạnh, GDP/đơn vị năng lượng xếp hạng 73 và tỷ lệ năng lượng phát thải các-bon thấp xếp hạng 58. Nhóm chỉ số đầu tư giảm 12 bậc xuống hạng 62, trong đó đầu tư mạo hiểm không cải thiện, tín dụng vi mô giảm xuống hạng 58.
Ở nhóm đầu ra, số công bố khoa học kỹ thuật (hạng 105), xuất khẩu dịch vụ ICT (hạng 103) và tiền bản quyền, giấy phép (hạng 112) đều ở mức thấp. Trong lĩnh vực sáng tạo, xuất khẩu dịch vụ văn hóa giảm 14 bậc (hạng 95), sản xuất phim truyện giảm 11 bậc (hạng 87).
Kết quả GII 2025 cho thấy Việt Nam tiếp tục tận dụng hiệu quả các nguồn lực để tạo ra kết quả đổi mới sáng tạo vượt mức phát triển, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo toàn cầu đang đứng trước nhiều ngã rẽ, việc duy trì và cải thiện thứ hạng là cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn tới.
Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) được WIPO tổ chức công bố hàng năm. Đây là một bộ công cụ đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia có uy tín trên thế giới, phản ánh mô hình phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của các quốc gia. Qua đó, các quốc gia thấy được bức tranh tổng thể cũng như các điểm mạnh, điểm yếu của mình.
Vì lý do trên mà GII được chính phủ nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ tham chiếu quan trọng cho quản lý nhà nước về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cũng như để xây dựng các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Columbia, Brazil, v.v…).
Theo kết quả khảo sát năm 2024 của WIPO, có 77% quốc gia thành viên (tăng hơn 20% so với kết quả khảo sát năm 2022) sử dụng kết quả GII trong xây dựng các chiến lược, chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thời gian qua, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số này như một trong các công cụ quản lí điều hành quan trọng và đã phân công các Bộ, cơ quan, địa phương cùng có trách nhiệm cải thiện chỉ số. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ là đầu mối theo dõi, điều phối chung.
Từ năm 2017 đến nay, chỉ số GII của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên 44 năm 2024/133 quốc gia, nền kinh tế.
Minh Hoàn