Việt Nam – Đường đến quốc gia thu nhập cao

Việt Nam – Đường đến quốc gia thu nhập cao
4 giờ trướcBài gốc
2026 là năm đầu Việt Nam triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2026-2030) - bước chuyển đổi đầu tiên từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới, dựa trên ba trọng tâm, gồm: thể chế linh hoạt, kinh tế xanh và con người sáng tạo, theo dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
Trước thời điểm quan trọng, KTSG Online đã có cuộc trò chuyện với TS Nguyễn Quốc Việt, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, với chủ đề thúc đẩy KHCN, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững.
Việt Nam vững vàng giữa những “cơn gió ngược”
- KTSG Online: Thưa ông, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế lần đầu được nêu trong văn kiện Đại hội VII của Đảng năm 1991, nhưng qua bảy kỳ Đại hội, vì sao nguy cơ ấy vẫn hiện hữu?
- TS Nguyễn Quốc Việt: Điều này tới từ việc chậm đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng như tái cấu trúc cơ cấu kinh tế, dù đã nhận diện được nguy cơ ngay khi đối mặt với suy thoái kinh tế - tài chính toàn cầu giai đoạn 2010-2012, và xác định ba khâu đột phá chiến lược, gồm: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nhanh nguồn nhân lực; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Robot có khả năng giao tiếp, trò chuyện và hỗ trợ con người trong một số công việc, do một doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Ảnh: H.T
Bên cạnh đó, những vấn đề tồn đọng nhiều năm, như: mô hình tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI); khả năng tự chủ công nghệ thấp… dẫn tới chất lượng tăng trưởng và hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hai chỉ số là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR).
Cụ thể, TFP chỉ đóng góp khoảng 30-35% vào tăng trưởng GDP của Việt Nam Nam giai đoạn 2010-2020, thấp hơn nhiều so với mức trên 50% tại các quốc gia OECD. Còn ICOR hiện khoảng 6,5 - tức 6,5 đồng vốn tạo ra 1 đồng lợi nhuận, trong khi con số này tại các quốc gia tiên tiến là 4.
Như vậy, việc thúc đẩy tăng trưởng theo chiều rộng, qua tăng vốn đầu tư và lực lượng lao động giản đơn đã khiến kinh tế Việt Nam không thể tăng trưởng theo chiều sâu, giống việc “Điều khiển một chiếc xe tiến về phía trước, với bộ động cơ lạc hậu và kém hiệu quả, thì khó duy trì tốc độ di chuyển nhanh và ổn định trong dài hạn. Thậm chí, còn tạo ra nhiều khói, bụi và lãng phí năng lượng”.
- Ông đánh giá ra sao về nguy cơ tụt hậu, trong bối cảnh mức độ cạnh tranh về công nghệ và thương mại giữa các cường quốc gia tăng đáng kể?
Việc hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới và tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, giúp Việt Nam liên tục gia tăng kim ngạch xuất khẩu, qua đó duy trì thặng dư thương mại - yếu tố quan trọng, góp phần ổn định vĩ mô và duy trì tăng trưởng kinh tế.
Nhưng khi mức độ cạnh tranh về công nghệ và thương mại giữa các cường quốc gia tăng nhanh, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, thì nguy cơ tụt hậu của nước ta đã hiện hữu. Theo đó, định hướng “nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện đầu vào từ Trung Quốc với tỷ trọng lớn, rồi xuất khẩu hàng hóa, thành phẩm sang Mỹ” khiến Việt Nam khó gia tăng kim ngạch xuất khẩu, thậm chí giảm quy mô đơn hàng trước các rào cản thuế quan và phi thuế quan.
Với các thị trường chịu cơ chế điều chỉnh của hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA, Chính phủ và doanh nghiệp đã rất tích cực nghiên cứu giải pháp tận dụng các ưu đãi, nhưng tốc độ gia tăng xuất khẩu và tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu vào các quốc gia, vùng lãnh thổ chịu cơ chế điều chỉnh của hai Hiệp định này vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia chịu cơ chế điều chỉnh của Hiệp định RCEP, vốn bao phủ khoảng 30% dân số và đóng góp 30% GDP toàn thế giới.
Một phần nguyên nhân tới từ những yêu cầu ngày càng cao của thị trường châu Âu. Chẳng hạn, yêu cầu cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), theo nội dung Hiệp định EVFTA, rất phức tạp, dẫn tới gia tăng chi phí và giảm sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam.
Ngoài những yêu cầu này, doanh nghiệp xuất khẩu còn phải đáp ứng những đòi hỏi khắt khe về năng lượng, nguyên liệu, quy trình sản xuất – kinh doanh, theo tiêu chuẩn xanh và bền vững.
Do đó, nếu chỉ dựa vào các hoạt động ở khâu hạ nguồn và thâm dụng lao động, Việt Nam không thể nâng cao vị thế trong cái chuỗi giá trị toàn cầu.
Mặt khác, nền tảng R&D và hệ sinh thái kết nối, ứng dụng KHCN vào sản xuất -kinh doanh của doanh nghiệp rất yếu, khiến quốc gia khó bứt phá trong bối cảnh mà các cường quốc đều có chiến lược cạnh tranh về công nghệ và muốn duy trì vị thế độc tôn và độc quyền về công nghệ.
Để trí tuệ, văn hóa đưa kinh tế Việt Nam “vươn mình”
- Với bối cảnh trên, các cơ quan quản lý cần kết hợp ra sao giữa yếu tố con người và KHCN, nhằm đạt mức tăng trưởng ít nhất 10%/năm giai đoạn 2026-2030 - theo yêu cầu của Đảng và Quốc hội?
Việc chuyển từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới, bền vững hơn, đã được thể hiện tại kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII và XIII. Theo đó, Đảng đã định hình ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu, tái cấu trúc nền kinh tế để có thể chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa trên chiều sâu hơn là chiều rộng.
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV lần này thể hiện rõ hơn tầm nhìn mới về động lực tăng trưởng, khi nhấn mạnh "phát triển khoa học - công nghệ là nhiệm vụ đột phá, là điều kiện để Việt Nam bước sang nền kinh tế tri thức". Theo đó, yếu tố công nghệ, chuyển từ vai trò công cụ hỗ trợ sản xuất thành nền tảng của mô hình tăng trưởng mới, nơi tri thức và đổi mới sáng tạo là yếu tố tạo giá trị gia tăng cao nhất.
Robot tuần tra giám sát an ninh VSR01, lần đầu tiên được giới thiệu trước công chúng, do Viettel nghiên cứu và phát triển. Ảnh: H.T
Muốn quá tình dịch chuyển diễn ra thuận lợi thì yếu tố con người, tức phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài cần được ưu tiên. Theo đó, cần tăng cường vai trò của Nhà nước và các khoản đầu tư từ ngân sách nhà Nước (NSNN) cho hệ thống giáo dục Đại học và dạy nghề. Đồng thời, xem xét lại định hướng xã hội hóa giáo dục và tự chủ hóa các trường Đại học.
Hiện chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá tương đối tốt trên mặt bằng thế giới, thể hiện phần nào qua thứ hạng trên bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của WIPO, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) 4.0 của WEF. Nhưng hệ thống giáo dục Đại học và dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu về việc chuyển dịch sang nền kinh tế đổi mới sáng tạo, theo chuẩn đánh giá của các tổ chức quốc tế.
Nguyên nhân chính là định hướng đào tạo STEM trong hệ thống giáo dục, nhất là các các trường Đại học, chưa đáp ứng yêu cầu. Muốn giải quyết vấn đề, cần có lộ trình đầu tư và chiến lược phát triển dài hạn, thay vì kỳ vọng sẽ đạt được kết quả tốt sau 1-2 mùa tuyển sinh, hoặc 1-2 kỳ học bậc đại học.
Hiện dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục Đại học đạt ít nhất 3%, với kỳ vọng sẽ tạo “cú hích” phát triển nhân tài trong nước. Nhưng tôi xin lưu ý, ngoài “cú hích” này, cần kết hợp các nguồn lực từ khu vực tư nhân, mới có thể thu hút nhân tài toàn cầu tới Việt Nam, nhằm trợ lực phát triển các trường đại học, trung tâm/viện nghiên cứu trong nước.
Ngoài ra, Nhà nước cần giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa trường Đại học - trung tâm R&D - doanh nghiệp ứng dụng KHCN, với yếu tố “con người” đặt ở vị trí trung tâm. Theo đó, mọi hoạt động, chương trình đào tạo của nhà trường đều hướng tới mục tiêu giúp người học nhanh chóng thích nghi, ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo vào hoạt động thực tế tại doanh nghiệp. Điều này phản ánh đúng tinh thần “lấy con người làm trung tâm, kết hợp với KHCN và đổi mới sáng tạo, hình thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.
Nếu không thể hình thành hệ sinh thái ba bên, nguồn lực sẽ bị lãng phí, do Nhà nước phải đầu tư cùng lúc cho trường Đại học và trung tâm R&D. Còn doanh nghiệp buộc phải đầu tư phát triển công nghệ, nguồn nhân lực gắn với định hướng phát triển riêng.
- Bên cạnh việc gắn kết giữa KHCN và kinh tế, văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng lần đầu nhấn mạnh khái niệm "chủ quyền công nghệ" - thể hiện khát vọng tự chủ trong lĩnh vực chiến lược. Vậy cần làm gì để đạt được điều này?
Trước Việt Nam, số ít quốc gia đã vượt qua bẫy thu nhập trung bình và vươn lên nhờ học hỏi, ứng dụng thành tựu KHCN thế giới. Đồng thời, nỗ lực đào tạo nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận và phát triển những thành tựu đó.
Đây là nền tảng hình thành một số ngành/sản phẩm mũi nhọn ban đầu của một quốc gia, được kết hợp hài hòa giữa thành tựu khoa học và yếu tố đặc trưng quốc gia. Chẳng hạn, đặc khu kinh tế Hồng Kông, Singapore, Đài Loan đã làm tốt trong việc việc bổ sung yếu tố đặc trưng văn hóa, con người, địa lý vào lĩnh vực công nghiệp, chế biến - chế tạo.
Tương tự, Nhật Bản có những doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyên sản xuất một số sản phẩm rất tinh vi, tới mức khi nhắc đến cái mặt hàng đó, phải nhắc tới thương hiệu “Made in Japan”.
Với Việt Nam, trong bối cảnh sản xuất công nghiệp, chế biến - chế tạo đã phổ cập, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nên lựa chọn xây dựng bản sắc riêng, với xuất phát điểm từ các ngành công nghiệp hỗ trợ, thông qua đưa dịch vụ hỗ trợ và ứng dụng yếu tố đổi mới sáng tạo vào các sản phẩm công nghiệp. Chẳng hạn, yếu tố liên quan tới kiểu mẫu hoặc kỹ thuật.
Với lĩnh vực công nghệ, có thể tăng cường ứng dụng trí tuệ Việt Nam trong mỗi sản phẩm phần cứng hoặc phần mềm, qua đó tạo thêm giá trị gia tăng cho doanh nghiệp trong nước, hướng tới giảm phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Như vậy, thay vì chỉ là lắp ráp các linh kiện thô, doanh nghiệp sẽ gia tăng giá trị và bổ cứu sản phẩm bằng dịch vụ, thiết kế, phần mềm hay ứng dụng.
Với lĩnh vực dịch vụ và kinh tế số, doanh nghiệp hoàn toàn có thể ứng dụng những yếu tố đặc trưng văn hóa Việt Nam, để tạo ra sản phẩm đặc thù hơn. Theo tìm hiểu của tôi, không ít doanh nghiệp đang từng bước phát triển công nghệ lõi, hướng tới làm chủ trí tuệ nhân tạo mang bản sắc Việt Nam.
Thậm chí, có đơn vị hướng tới xây dựng các mô hình ngôn ngữ lớn thuần Việt, phản ánh đúng đặc trưng văn hóa, xã hội và ngôn ngữ trong nước, giúp AI hiểu và phục vụ người Việt Nam chính xác hơn.
Bên cạnh những định hướng chiến lược dài hạn vừa nêu, trong ngắn hạn, mỗi doanh nghiệp, cơ quan, dù ở khu vực công hay tư, cần xây dựng một bộ tiêu chuẩn văn hóa, với những tiêu chuẩn về tác phong và ứng xử, để hình thành những nhân sự tử tế. Bởi khi những nhân sự tử tế, chuẩn chỉnh kết hợp cùng nhau, hoạt động sẽ năng suất và hiệu quả hơn.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Vân Phong
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/viet-nam-duong-den-quoc-gia-thu-nhap-cao/