Việt Nam - Pakistan: Hai thập kỷ, hai dòng sông, một giấc mơ - Bài 3: Cây cầu Taxila tới núi Bà Đen

Việt Nam - Pakistan: Hai thập kỷ, hai dòng sông, một giấc mơ - Bài 3: Cây cầu Taxila tới núi Bà Đen
10 giờ trướcBài gốc
Taxila - nơi tiếng chuông và con đường tơ lụa tắt giữa thung lũng đá
Xe chúng tôi từ Islamabad rời thành phố trong buổi sáng trong vắt, đi qua những con đường đầy bụi và ánh nắng vàng óng của vùng Punjab. Khi đến Taxila - mảnh đất cổ nằm giữa những triền đồi thấp, từng là trung tâm Phật giáo rực rỡ nhất châu Á - cả đoàn Bộ Công Thương Việt Nam ai nấy đều im lặng, như tự khắc bước vào một không gian khác: Không gian của ký ức, của thời gian và của tâm linh.
Ngay lối vào di tích, tấm bảng lớn của UNESCO hiện ra với dòng chữ xanh đã phai:
Tấm biển giới thiệu di tích bảo tàng Taxila.
Toàn cảnh sơ đồ di tích Taxila được đặt ngay trước cổng vào.
Tháp Dharmarajika, được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1980, là công trình Phật giáo cổ nhất và lớn nhất tại Taxila, nằm bên bờ suối Dharma. Công trình này được xây dựng để cất giữ xá lợi Phật do vua A Dục (Ashoka Đại Đế) còn được gọi là Dharmaraja (“Vua của Chính pháp”) - phân phối và tôn thờ. Vì thế, tên gọi “Dharmarajika” có nghĩa là “ngôi tháp của vua Dharmaraja.”
Khu di tích được khai quật trong giai đoạn 1912 - 1916 bởi ông Ghulam Qadir dưới sự chỉ đạo của Sir John Marshall, và được mở rộng năm 1934 - 1936. Tháp tròn có đường kính 40 mét, cao 14 mét, xây bằng đá xanh ghép khối, có hành lang lát đá bao quanh. Nhiều lần tháp bị hư hại do trận động đất năm 40 sau Công nguyên và do nạn cướp bóc liên tiếp.
Xung quanh bảo tháp là hàng chục tháp nhỏ (votive stupas) và miếu nguyện thuộc thời kỳ Kushan sớm (thế kỷ II - V). Trong 12 ngôi miếu, người ta tìm thấy các tượng người, thú bằng đá, con dấu đất nung và nhiều cổ vật quý hiếm. Các hốc tường trong miếu chứa tượng Phật và Bồ tát bằng đất sét và thạch cao, thể hiện nghệ thuật Gandhāra điêu luyện.
Đến cuối thế kỷ V, khi vương triều Kidara Kushan bị người Hung trắng (White Huns) tiêu diệt, tuyến thương mại và đời sống kinh tế suy tàn, các tu viện Phật giáo, trong đó có Dharmarajika, dần bị bỏ hoang.
Một góc của di tích Taxila.
Anh hướng dẫn viên bản địa kể: “Tháp Dharmarajika là công trình Phật giáo cổ nhất và lớn nhất tại Taxila. Nó được xây dựng để tôn thờ xá lợi Phật do Vua Ashoka Đại Đế - còn gọi là Dharmaraja, nghĩa là vua của Chính pháp - cúng dường".
Câu chuyện ấy cũng được ghi rõ trên bảng thông tin: “Tên gọi Dharmarajika bắt nguồn từ chính danh hiệu của vị vua đã dâng mình cho đạo pháp, người từng truyền bá giáo lý Phật khắp lục địa Á".
Nghe tới đây, tôi nhớ đến những bậc hiền triết của Việt Nam - những con người lấy đạo lý làm gốc, lấy trí tuệ làm đường. Cái tên Dharmarajika - “ngôi tháp của vua Chính pháp” - khiến lòng tôi rung lên một cảm xúc gần gũi, như nghe thấy lời vọng về từ chính truyền thống Việt Nam: “Dùng đức trị dân, lấy nhân làm gốc".
Kinh đô Phật giáo một thời nay chỉ còn là những thềm đá hoang tàn.
Taxila không chỉ là di tích cổ. Nó là một “hóa thạch sống” của ký ức Á Đông. Hai ngàn năm trước, nơi này là trái tim tri thức của thế giới, nơi những học giả Ấn, Hy Lạp, Ba Tư cùng đến giảng pháp. Nơi đây có lưu giữ hơn 7.000 hiện vật về Đức Phật và cũng từng là nơi Đại sư Huyền Trang, nguyên mẫu sư phụ trong bộ phim huyền thoại Tây du ký từng đi qua trên đường lấy kinh xong ít người biết rằng ông chỉ là một trong những nhà sư cuối cùng từ Trung Hoa đến với “trường đại học Phật giáo” này. Nhà sư rất nổi tiếng Huyền Trang là người cuối cùng trong số những người hành hương Trung Quốc đầu tiên. Ông đã đến thăm Gandhara, mà ông gọi là Kien-to-Lo và đi qua Tiểu lục địa từ năm 629 Công nguyên đến 645 Công nguyên để có được các văn bản tôn giáo của Phật giáo. Vào thời điểm rời Gandhara, ông đã mang theo hơn 650 kinh điển Phật giáo mà ông đã mang đến Trung Quốc. Xuanzang đã mô tả về Gandhara trong cuốn sách du lịch của mình.
Những tài liệu cổ ghi: "Đất này học vấn thâm uyên, tăng sĩ tinh cần, chùa tháp rợp trời, tuy trải nhiều biến cố nhưng phong hóa vẫn còn rực rỡ. Người hướng dẫn viên tự hào: Đây từng là… Harvard của châu Á". Câu nói ấy vang trong gió, nghe vừa tự hào vừa xót xa.
Một tấm bảng khác viết: “Taxila nằm trên một nhánh của Con đường Tơ lụa cổ, nối Trung Hoa với các vùng phương Tây, từng là trung tâm học thuật và thương mại lớn của châu Á cổ đại".
Những phế tích tại đây phản ánh mô hình đô thị hóa đặc trưng của nền văn minh Gandhāra, hưng thịnh từ thế kỷ V trước Công nguyên đến thế kỷ V sau Công nguyên.
Dưới triều đại Maurya và Kushan, nhiều bảo tháp, tu viện và đại học Phật giáo như Dharmarajika, Jaulian, Kalawan, Mohra Muradu được xây dựng. Nơi đây thu hút học giả và tăng sĩ từ khắp châu Á, trở thành trung tâm học tập, nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo rực rỡ bậc nhất.
Năm 1980, UNESCO đã công nhận Taxila là Di sản Văn hóa Thế giới, với giá trị văn hóa đặc biệt mang tính toàn nhân loại – biểu tượng của di sản chung của loài người”.
Minh chứng cho những dòng chữ ấy là Bảo tàng Taxila, thành lập năm 1928, lưu giữ bộ sưu tập phong phú nhất về nghệ thuật Gandhāra và hàng nghìn cổ vật khai quật được trong thung lũng Taxila. Hiện có hơn 7.000 hiện vật trưng bày, bao gồm tượng đá, gốm, sắt, bạc, vàng, ngọc bán quý. Các hiện vật cổ nhất có niên đại tới thế kỷ VIII trước Công nguyên.
Các di tích trong thung lũng Taxila đều đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Ngoài Dharmarajika, còn có Mohra Muradu, Jaulian, Kalawan, Pipplan, Bhamala, Jinna Wali Dheri, Badalpur, minh chứng cho một trung tâm văn hóa Phật giáo huy hoàng kéo dài hàng thế kỷ.
Dấu vết chân tượng Phật khổng lồ tại di tích Taxila.
Đoàn công tác Bộ Công Thương tham quan di tích Taxila - Di sản Thế giới UNESCO.
Rời tháp chính, đoàn chúng tôi dừng lại trước bảng lớn có dòng chữ “Taxila - Di sản Thế giới UNESCO”. Phần mở đầu viết:
Taxila nằm trên một nhánh của Con đường Tơ lụa cổ, nối Trung Hoa với các vùng phương Tây. Đây từng là trung tâm lớn của học thuật và thương mại châu Á".
Những dòng chữ ấy khiến ai cũng nghĩ ngay đến Việt Nam - quốc gia đang hồi sinh mạnh mẽ trên bản đồ thương mại quốc tế và nó ám ảnh chúng tôi trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Một nền thương mại dù có thể to lớn quy mô đến bao nhiêu đi chăng nữa nhưng chỉ có thể bền vững khi được xây trên sức mạnh nội lực, sức mạnh độc lập tự chủ của cả một dân tộc.
Biến văn hóa thành động lực phát triển: Bài học Việt Nam
Đứng giữa thung lũng, tôi chợt nhớ Tam Chúc những ngày đầu - khi cả vùng còn là bãi đất hoang. Bà Đen từng chỉ là ngọn núi sỏi đá, Ba Vàng cũng chỉ là một ngôi chùa nhỏ giữa rừng thông. Thế mà giờ đây, Tam Chúc đã trở thành “ngôi chùa lớn nhất thế giới”, Bà Đen là “nóc nhà Nam Bộ” đón hàng triệu khách, Ba Vàng là điểm đến văn hóa - thiền học được hàng vạn Phật tử tìm về. Việt Nam đã biến niềm tin thành sản phẩm du lịch, biến văn hóa thành động lực phát triển.
Núi Bà Đen được mệnh danh là “nóc nhà Nam Bộ” đón hàng triệu khách du lịch mỗi năm.
Núi Bà Đen - địa danh tâm linh nay đã trở thành sản phẩm du lịch, đưa văn hóa thành động lực phát triển.
Còn Taxila - nếu có tầm nhìn, có chiến lược, hoàn toàn có thể làm được điều tương tự, để di sản không còn chỉ là ký ức, mà là tương lai, không chỉ là một điểm đến cấp quốc gia mà còn là một điểm đến mang tầm vóc quốc tế.
Bảng 1: So sánh mô hình du lịch tâm linh Việt Nam - Pakistan
Đánh thức giấc mơ Phật giáo xuyên Á
Trong cuộc trò chuyện với một quan chức Pakistan tại Bảo tàng Gandhāra, ông nói: “Chúng tôi có những ngôi chùa cổ từ thế kỷ III, nhưng giờ chẳng mấy ai đến". Tôi nhớ lại cảnh tượng những đoàn khách Việt Nam chen chân trong mùa lễ hội Tam Chúc, những buổi hoàng hôn trên núi Bà Đen, những khóa tu ở Ba Vàng, nơi ánh nến hòa vào khói hương mà lòng người nhẹ như mây. Việt Nam đã tìm được cách biến tâm linh thành nguồn lực phát triển mềm, kết hợp giữa kinh tế, văn hóa và tinh thần.
Bảo tàng di tích còn lưu giữ hàng ngàn hiện vật cổ cho thấy nơi đây là một trung tâm Phật giáo huy hoàng, đồng thời gắn với con đường tơ lụa thương mại phát triển cao.
Pakistan có thể học được điều đó. Taxila, Swat, hay Peshawar hoàn toàn có thể trở thành “công viên di sản Phật giáo quốc tế”, kết nối với Bodh Gaya của Ấn Độ, Bagan của Myanmar, Yên Tử của Việt Nam - tạo thành một “Con đường Phật giáo Á - Á”. Khi ấy, du khách sẽ không chỉ đi hành hương, mà còn đi tìm lại cội nguồn văn minh.
Việt Nam có thể hỗ trợ Pakistan trong công tác số hóa di sản - như cách ta đã làm với Hoàng thành Thăng Long hay chùa Một Cột 3D. Một chuyến tham quan ảo về Taxila, được dẫn dắt bằng tiếng Việt, tiếng Urdu hay tiếng Anh, có thể trở thành cầu nối đầu tiên để thế giới biết đến vẻ đẹp này. Bởi trong thời đại công nghệ, đôi khi chỉ một hình ảnh VR cũng có thể thay đổi số phận của một di sản.
Bảng 3: Mô hình du lịch tâm linh Việt Nam - bài học cho Pakistan
Từ cà phê đến gia vị: Halal trở thành ngôn ngữ văn hóa
Trong suốt những ngày công tác tại Islamabad, bên cạnh các cuộc hội đàm về thương mại, điều khiến tôi ấn tượng lại là câu chuyện về ẩm thực Halal. Trên bàn tiếp khách của Bộ Thương mại Pakistan, khi Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nâng ly cà phê Việt Nam đã được cấp chứng nhận Halal và vị đồng cấp Pakistan mời ông nếm trà sữa gia vị Karachi, tôi nhận ra: Halal đang là một kho tài nguyên thương mại rất lớn chờ Việt Nam!
Halal, với người Hồi giáo, không chỉ là quy chuẩn thực phẩm mà là một nền văn hóa sống - sạch sẽ, nhân ái, tôn trọng tự nhiên và con người. Và thật tình cờ, những giá trị ấy lại trùng khớp với triết lý “thuận tự nhiên, tươi, ngon, sạch, nguyên chất” mà người Việt luôn gìn giữ trong ẩm thực.
Taxila nằm trên một nhánh của Con đường Tơ lụa cổ, nối Trung Hoa với các vùng phương Tây. Đây từng là trung tâm lớn của học thuật và thương mại châu Á.
Tác giả bài viết tại bảo tàng di tích.
Thị trường Halal toàn cầu hiện đạt hơn 2,3 nghìn tỷ USD mỗi năm và Pakistan là một trong những trung tâm lớn nhất của ngành công nghiệp này. Việt Nam đang bước đầu hội nhập, từ cà phê, thủy sản, đến thực phẩm chay Halal xuất khẩu sang Trung Đông và Nam Á. Hai quốc gia - một bên có nền văn hóa Phật giáo sâu sắc, một bên có di sản Hồi giáo lâu đời - đang đứng trước cơ hội biến Halal thành ngôn ngữ văn hóa chung.
Trong buổi làm việc tại Islamabad, hai Bộ trưởng đã thống nhất hướng đi giản dị mà sâu sắc: Hợp tác Halal không chỉ là thương mại, mà là văn hóa.
Bảng 2: Cơ hội hợp tác Halal giữa Việt Nam - Pakistan
Từ đó, một tầm nhìn mở ra: Việt Nam có thể tổ chức Tuần lễ Ẩm thực Halal Việt - Pakistan, nơi cà phê Việt hòa cùng hương gia vị phương Nam; hay xây dựng chuỗi “Halal Á - Á”, kết nối các đầu bếp, doanh nghiệp, chuyên gia hai nước. Khi một món ăn được chia sẻ, cũng là khi những định kiến được tháo gỡ và những cánh cửa mới được mở ra.
Chờ đợi ngày mai thung lũng đá thức dậy
Chiều muộn Islamabad, gió sa mạc thổi qua những bức tượng Phật Gandhāra nứt nẻ. Tôi thấy trong mắt người hướng dẫn viên Pakistan một nỗi buồn rất lạ - buồn vì di sản quá lớn mà lòng người chưa đủ mạnh để gìn giữ. Tôi nghĩ đến những Tây Ninh, Tây Thiên, Tam Chúc của Việt Nam, nơi từng là vùng đất trũng, sình lầy, đầy đá tảng, nhưng rồi đã hóa thành quần thể tâm linh kỳ vĩ.
Tôi tin có ngày Pakistan có thể tạo nên “phép màu Taxila”!
Hai quốc gia - từng vượt qua chiến tranh, chia cắt, tái thiết - giờ có thể cùng nhau xây dựng một “cầu văn hóa mềm” nối Đông Nam Á và Nam Á. Khi văn hóa được xem như sức mạnh quốc gia, khi ẩm thực trở thành ngôn ngữ, khi du lịch được đặt trên nền tảng di sản, thì đó chính là cách để các dân tộc hồi sinh từ chính ký ức của mình.
Tôi chợt nhớ đến những chia sẻ của Đại sứ Pakistan tại Việt Nam Kohdayar Marri trước chuyến công tác của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên. Đại sứ Pakistan tại Việt Nam Kohdayar Marri có tiểu sử như một “nghệ sĩ”, từ tốt nghiệp ngành kiến trúc và thiết kế Đại học Oxford Brooks (Anh), trải qua nhiều khóa đào tạo về nhiếp ảnh và điện ảnh, đến việc là tác giả của nhiều bộ phim ngắn, phim tài liệu được đông đảo người dân Pakistan biết đến, cũng từng là một nhà báo.
Ông nói: “Riêng cá nhân tôi đã kiến nghị và thúc đẩy Bộ Thương mại Pakistan sang Việt Nam thảo luận việc cải thiện các chương trình nghị sự, hoàn thiện các thỏa thuận thương mại. Bởi, hiện có rất nhiều sản phẩm của Việt Nam chưa thể xuất sang Pakistan và ngược lại do thiếu các hiệp định phù hợp. Nguyện vọng của tôi là hai nước sẽ sớm có một hiệp định thương mại tự do (FTA). Tuy nhiên, phía Bộ Thương mại Pakistan cho rằng, cần tiến hành từng bước, bắt đầu bằng Thỏa thuận thương mại ưu đãi tới đây”.
Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ chính trị - kinh tế, Đại sứ Kohdayar Marri quan tâm đặc biệt đến hợp tác du lịch, văn hóa, giao lưu nhân dân trong nhiệm kỳ của mình. Theo ông, chỉ có thể qua nhịp cầu văn hóa hai bên mới có thể thấu hiểu về nhau, tạo ra “sức mạnh mềm” cho quan hệ hai nước.
Vâng, đúng như những chia sẻ của Đại sứ, một ngày nào đó, tôi hy vọng, du khách Việt Nam sẽ hành hương từ Yên Tử qua Tam Chúc, sang Taxila. Họ sẽ uống trà Halal Pakistan, nhâm nhi cà phê Halal Việt Nam, nghe kể về con đường Huyền Trang đã đi qua - và kể tiếp câu chuyện mới về một châu Á đang hồi sinh bằng văn hóa, bằng niềm tin và bằng chính con người của mình.
Việt Nam - Pakistan: Hai thập kỷ, hai dòng sông, một giấc mơ - Bài 1: Người Công Thương khơi dòng thương mại tỷ đô.
Việt Nam - Pakistan: Hai thập kỷ, hai dòng sông, một giấc mơ - Bài 2: Mở ‘con đường tơ lụa’ mới
Đại Bàng - Ghi chép từ Islamabad - Hà Nội, 10/2025
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/viet-nam-pakistan-hai-thap-ky-hai-dong-song-mot-giac-mo-bai-3-cay-cau-taxila-toi-nui-ba-den-426389.html