Gần một chục năm trở lại đây, internet vệ tinh được nhắc đến ngày càng nhiều khi giải pháp này được thương mại hóa và thể hiện được giá trị vượt trội so với các loại hình truyền thống trong nhiều trường hợp. Dù chưa thể phổ biến như cáp quang, mạng di động, nhưng internet vệ tinh ngày càng cải thiện về tốc độ cùng hàng loạt ưu điểm khác.
Trên thế giới, nổi tiếng nhất ở lĩnh vực internet vệ tinh là hệ thống Starlink của SpaceX, Kupier của Amazon (Mỹ) hay Oneweb từ công ty cùng tên của Anh. Ngoài ra, Trung Quốc cũng có hệ thống riêng như SpaceSail.
Mạng lưới Starlink của SpaceX hiện có tới hàng nghìn vệ tinh phủ sóng toàn cầu - Ảnh: SpaceX
Trong khi đó tại Việt Nam, Quốc hội ngày 19.2 năm nay đã thông qua nghị quyết cho phép thí điểm có kiểm soát đầu tư mạng viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp. Đây là một trong những đột phá được quy định tại Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Việc thí điểm dựa trên nguyên tắc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc tỷ lệ đóng góp của nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách này "đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận dịch vụ internet, đồng thời, góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam, thu hút thêm đầu tư của các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới và tạo thêm việc làm".
Tập đoàn SpaceX của Mỹ, đơn vị cung cấp dịch vụ internet vệ tinh đã được phép thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp (Starlink) tại Việt Nam.
Cụ thể, theo Quyết định 659 ngày 23.3 của Thủ tướng Chính phủ, SpaceX được thực hiện thí điểm có kiểm soát đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng, loại hình mạng viễn thông vệ tinh sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp tại Việt Nam trên nguyên tắc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc tỷ lệ đóng góp.
Nhìn vào điểm mạnh, internet vệ tinh với khả năng phủ sóng toàn cầu có thể giúp kết nối các vùng sâu vùng xa, hải đảo, nơi mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng cáp quang hay mạng di động là không khả thi. Đây chính là điểm mạnh nhất của công nghệ này, giúp cho những khu vực trước đây không có cơ hội tiếp cận internet, nay có thể dễ dàng kết nối với thế giới. Với các hệ thống vệ tinh quỹ đạo thấp (LEO), dữ liệu có thể được truyền từ các vệ tinh lên không gian và sau đó được gửi xuống các trạm thu phát tại mặt đất, giúp người dùng kết nối internet mà không cần phải kéo dây cáp hay xây dựng trạm thu phát sóng di động cỡ lớn.
Công nghệ vệ tinh cũng đang phát triển nhanh chóng. Các vệ tinh thế hệ mới hiện nay sử dụng tia laser thay vì sóng vô tuyến để truyền tải dữ liệu, giúp cải thiện tốc độ và độ ổn định của kết nối. Sự đổi mới này mở ra triển vọng lớn cho các nhà cung cấp internet vệ tinh, như SpaceX với Starlink, có thể cung cấp tốc độ cao hơn và ổn định hơn cho người dùng. Hiện tại, tốc độ tải xuống của Starlink đã đạt tới 64 Mbps và có thể tăng lên 300 Mbps trong tương lai. Mặc dù vậy, tốc độ này vẫn thấp hơn so với các loại hình internet cố định như cáp quang, vốn có thể đạt từ 5.000 đến 10.000 Mbps.
Tuy nhiên, việc triển khai internet vệ tinh không phải không khó khăn. Ngoài chi phí thiết bị đầu cuối khá cao, việc duy trì kết nối internet vệ tinh cũng gặp phải những vấn đề, như độ trễ trong quá trình truyền tải dữ liệu, đặc biệt là khi người dùng ở khu vực xa vệ tinh quỹ đạo thấp. Thêm vào đó, điều kiện thời tiết xấu như mưa to, bão hay tuyết cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng kết nối, khiến cho việc sử dụng internet không ổn định trong một số trường hợp.
Cục Thông tin - Thống kê (Bộ Khoa học - Công nghệ) nhìn nhận việc thí điểm đầu tư mạng viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp được Quốc hội thông qua, mở ra cơ hội lớn cho việc phát triển internet vệ tinh trong nước. Chính phủ Việt Nam hy vọng việc thử nghiệm này sẽ giúp tạo cơ hội cho người dân tại những khu vực khó tiếp cận có thể sử dụng dịch vụ internet, đồng thời thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Chính sách này cũng nhằm tạo điều kiện thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn, như SpaceX hay Amazon, đồng thời góp phần tạo thêm việc làm cho người dân.
Các công ty như Starlink của Elon Musk đang tìm cách gia nhập thị trường Việt Nam. Trong các triển lãm khoa học công nghệ tại Hà Nội, Starlink đã giới thiệu dịch vụ internet vệ tinh của mình. Tuy nhiên, việc triển khai này vẫn gặp phải nhiều rào cản, nhất là về chi phí. Hiện tại, một bộ thiết bị thu internet vệ tinh của Starlink giá đến 599 USD, tương đương 14 triệu đồng, chưa kể phí thuê bao hằng tháng khoảng 99 USD (2,3 triệu đồng). Con số này cao gấp nhiều lần so với các dịch vụ internet trong nước hiện có, khiến nhiều người dùng khó tiếp cận.
Vấn đề giá cả vẫn là một rào cản lớn đối với việc phổ biến internet vệ tinh. Mặc dù tốc độ truyền tải của internet vệ tinh đã được cải thiện đáng kể, nhưng chi phí sử dụng vẫn là một yếu tố khiến người dùng Việt Nam e ngại. Trong khi đó, các dịch vụ internet cố định với cáp quang có giá thành thấp hơn nhiều, và tốc độ mạng lại cao hơn đáng kể, từ 100 Mbps đến 1.000 Mbps. Chính vì vậy, để internet vệ tinh có thể phổ biến tại Việt Nam, cần có sự điều chỉnh trong chính sách và cơ chế hỗ trợ giá cho người dùng, nhất là ở những khu vực khó khăn về kết nối.
Công nghệ này có thể cung cấp dịch vụ nhanh chóng đến mọi nơi trên thế giới, từ các khu vực hải đảo đến các khu vực biên giới xa xôi. Các nhà cung cấp dịch vụ có thể triển khai vệ tinh trong không gian để phủ sóng rộng khắp, không bị giới hạn bởi các yếu tố địa lý. Tuy nhiên, nếu internet vệ tinh muốn thực sự chiếm ưu thế, các nhà cung cấp cần tiếp tục cải thiện tốc độ và độ ổn định của kết nối. Những tiến bộ trong công nghệ vệ tinh, như việc sử dụng ánh sáng laser để truyền tải dữ liệu, sẽ giúp tăng cường khả năng truyền tải lượng dữ liệu lớn hơn trong thời gian ngắn hơn. Đây sẽ là yếu tố quan trọng giúp internet vệ tinh cạnh tranh được với các phương thức kết nối truyền thống như cáp quang hay mạng di động 5G.
Tuyết Nhung