Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đang được lấy ý kiến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân.
Điểm đáng chú ý là Báo cáo Chính trị được xây dựng theo hướng tích hợp nội dung của cả ba văn kiện là báo cáo chính trị, báo cáo kinh tế - xã hội và báo cáo tổng kết công tác Xây dựng Đảng.
Việc tích hợp này thể hiện tinh thần tiếp tục đổi mới về cách xây dựng văn kiện, xuất phát từ thực tiễn mới của đất nước, sự phát triển nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện của Đảng, bảo đảm sự nhất quán về nội dung; ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Đại hội, toàn bộ định hướng phát triển đất nước từ đường lối chính trị, chiến lược kinh tế - xã hội đến xây dựng Đảng, được trình bày chỉ trong một văn kiện. Việc hợp nhất này thể hiện mục tiêu gắn kết giữa ba trụ cột là thể chế, kinh tế và con người - khắc phục tình trạng chia tách giữa định hướng chính trị, kế hoạch phát triển và tổ chức thực thi trong hệ thống.
Quang cảnh hội nghị lần thứ 13, Trung ương khóa XIII. Ảnh: NHÂN DÂN
Bước ngoặt để xác lập và chuyển sang mô hình tăng trưởng mới
Dự thảo nhìn lại sau 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới.
Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 đạt bình quân khoảng 6,3%/năm, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Chất lượng tăng trưởng có bước chuyển biến tích cực, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%...
Cùng đó, các hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đời sống nhân dân, quốc phòng an ninh và đối ngoại, xây dựng Đảng đều có bước tiến rõ nét.
Dù vậy, dự thảo báo cáo cũng chỉ ra những mặt hạn chế, tồn tại như thể chế còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, tăng trưởng dưới mức tiềm năng, năng lực, trình độ công nghệ còn yếu, thiếu những ngành công nghiệp nền tảng, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát, sự phân hóa giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng…
Từ đó, dự thảo văn kiện xác định giai đoạn 2026-2030 phải là bước ngoặt để Việt Nam xác lập và chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Cùng đó là thể chế linh hoạt, phát triển kinh tế xanh, chú trọng nguồn nhân lực…
Văn kiện đã xác định rõ các giai đoạn phát triển cụ thể của Việt Nam. Đó là đến đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Để đạt được mục tiêu đó, văn kiện đã đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026 - 2030. Trong đó có hai chỉ tiêu rất quan trọng về kinh tế là đạt tốc độ tăng trưởng cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên, GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500USD.
Ngoài ra, năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) trên 55%, tỉ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP, tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%...
Ba đột phá chiến lược được tập trung để để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đầu tiên là đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ, kiến tạo phát triển. Cùng đó, Việt Nam tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Thứ ba là hoàn thiện đồng bộ và đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, đồng thời ưu tiên hạ tầng số, xanh, năng lượng…
Văn kiện cũng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Nghiên cứu sửa đổi tổng thể Hiến pháp năm 2013 phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống. Ảnh: ĐHQG TP.HCM
Khát vọng làm chủ khoa học công nghệ
Một nội dung đáng chú ý là dự thảo văn kiện đã lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống.
Theo đó, dự thảo yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển khoa học, công nghệ phù hợp với nguyên tắc thị trường, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Các lĩnh vực được ưu tiên là công nghiệp điện tử, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ hạt nhân, năng lượng nguyên tử, năng lượng mới, công nghệ không gian vũ trụ, công nghệ lượng tử.
Việt Nam cũng thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới, trọng tâm phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, xây dựng xã hội số, thân thiện với môi trường sinh thái. Mục tiêu phấn đấu là đến năm 2030, tỉ trọng kinh tế số sẽ đạt khoảng 30% GDP.
Song song đó, văn kiện cũng đặt mục tiêu ưu tiên phát triển, từng bước làm chủ công nghệ sản xuất trong một số ngành công nghiệp mới nổi. Cụ thể, công nghiệp chip bán dẫn, công nghiệp robot và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, vật liệu phục vụ công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp sinh học, công nghiệp môi trường, năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Qua đó, từng bước thể hiện khát vọng nắm giữ công nghệ cốt lõi, tạo sức mạnh cho quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Văn kiện đặt con người ở vị trí trung tâm với vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách. Trong đó, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc. Ảnh: NGUYỆT NHI
Con người là trung tâm mọi quốc sách
Văn kiện cũng đặt con người ở vị trí trung tâm với vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách. Trong đó, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc.
Dự thảo văn kiện đã đặt ra mục tiêu xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa giáo dục; phát triển giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là cấu phần quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chú trọng phát triển giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
Việt Nam định hướng một số cơ sở giáo dục trở thành các trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngang tầm các nước tiên tiến; đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Đáng chú ý là Việt Nam sẽ đưa năng lực số vào chương trình giáo dục phổ thông. Có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội đối với đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học và cán bộ quản lý giáo dục.
Việt Nam cũng ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; chú trọng thu hút các nhà khoa học giỏi, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập suốt đời…
Về y tế, dự thảo văn kiện hướng tới hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả, bền vững; người dân được khám sức khỏe miễn phí ít nhất mỗi năm một lần, tiến tới miễn viện phí và bao phủ sức khỏe toàn dân. Mục tiêu hướng tới là không để ai bị bỏ lại phía sau với các chính sách an sinh xã hội toàn diện. “Đến năm 2030, tuổi thọ trung bình đạt khoảng 75,5 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh là 68 năm, cả nước không còn hộ nghèo” – văn kiện nêu rõ.
Dự thảo báo cáo chính trị đưa vào khái niệm về xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, qua đó khẳng định bên cạnh việc phát triển, tăng trưởng về các mặt kinh tế thì hệ giá trị con người cũng được đầu tư nâng tầm. Ảnh: QUANG ANH - PHI HÙNG - HOÀNG GIANG
Lần đầu xác lập hệ giá trị quốc gia - văn hóa - gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam
Đáng chú ý về văn hóa, dự thảo văn kiện yêu cầu xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các giá trị cơ bản. Đó là dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học; bảo đảm phát triển văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội, để văn hóa thực sự là nền tảng, nguồn lực nội sinh, động lực to lớn, hệ điều tiết cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Báo cáo đã đưa vào khái niệm về xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, qua đó khẳng định bên cạnh việc phát triển, tăng trưởng về các mặt kinh tế thì hệ giá trị con người cũng được đầu tư nâng tầm.
Cùng đó, Việt Nam sẽ bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản. Xây dựng, phát triển văn học - nghệ thuật xứng tầm với lịch sử văn hóa dân tộc và tầm vóc của công cuộc đổi mới. Xây dựng các thiết chế và tổ chức các hoạt động văn hóa theo hướng thiết thực, linh hoạt, lấy địa bàn cơ sở, người dân làm trung tâm.
Văn kiện nhấn mạnh việc củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, bảo đảm và bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đẩy mạnh đột phá phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; đẩy mạnh ngoại giao toàn diện phục vụ phát triển, trọng tâm là ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ…
“Bổ sung, hoàn thiện thể chế để phát huy cao nhất vai trò của 3 trụ cột, gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam tiên phong, toàn diện, hiện đại” - dự thảo văn kiện nhấn mạnh.
Công tác xây dựng Đảng được coi là then chốt. Đội ngũ cán bộ được bố trí theo nguyên tắc "có vào có ra", "có lên có xuống", khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; hoàn thiện cơ chế "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, có chế độ tiền lương và đãi ngộ phù hợp với cống hiến, tài năng để không muốn và không cần tham nhũng, tiêu cực.
Như vậy, có thể khẳng định, sự hợp nhất, tích hợp ba văn kiện thành Báo cáo chính trị mới là tư duy mới, đột phá, sáng tạo, thể hiện đúng tầm vóc của Báo cáo chính trị, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các văn kiện Đại hội XIV của Đảng.
NGUYỄN THẢO