Viết tiếp 'trang sử vàng' của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Viết tiếp 'trang sử vàng' của ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới
2 giờ trướcBài gốc
Trong gần 20 năm kháng chiến, hàng trăm triệu đô la chi viện miền Nam đã được vận chuyển qua con đường Trường Sơn (ảnh tư liệu của Đoàn 559 - Bộ Tư lệnh Trường Sơn)
Dáng hình đất nước trong dòng chảy tiền tệ
Từ khi thành lập đến nay, ngành Ngân hàng cũng luôn hòa nhịp cùng với sự đi lên của đất nước, trong chiến tranh cũng như hòa bình; trong dựng xây cũng như đổi mới, phát triển và hội nhập. Hành trình vẻ vang ấy đã khắc họa rõ nét khát vọng đổi mới, ý chí kiên cường của ngành Ngân hàng, vượt qua mọi thử thách, để luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị, thực hiện tốt sứ mệnh, vai trò huyết mạch nền kinh tế, góp phần quan trọng vào ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, vào sự nghiệp kiến tạo và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những đóng góp thầm lặng nhưng vẻ vang này không chỉ được ghi lại bằng tư liệu, hình ảnh mà còn được khắc sâu trong biên niên sử của dân tộc.
Trở về mùa thu lịch sử ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên độc lập của dân tộc. Tháng 12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế kháng chiến, Chính phủ thành lập 3 khu vực tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực: Tiền tài chính (tiền Trung ương) ở Bắc Bộ, Tín phiếu ở Trung Bộ và Giấy bạc ở Nam Bộ. Năm 1947, Nha tín dụng sản xuất, tổ chức tín dụng đầu tiên của nước ta và Ban Tài chính Trung ương ra đời – đặt nền móng cho hệ thống ngân hàng kháng chiến.
Trước những đòi hỏi cấp thiết của cuộc kháng chiến, một sự chuyển mình mạnh mẽ đã diễn ra khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đề ra chủ trương, chính sách mới về kinh tế - tài chính. Trong đó chỉ rõ: Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế; thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ, cải tiến chế độ tín dụng. Thực hiện chủ trương đó, ngày 6/5/1951, tại hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thành lập là một bước ngoặt lịch sử của dân tộc. Đất nước ta lần đầu tiên có một ngân hàng trung ương riêng, một đồng tiền riêng, một nền tài chính tự chủ. Đó là lời tuyên ngôn mạnh mẽ về chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực tiền tệ, là biểu tượng của trí tuệ Việt Nam trong hành trình tự lực vươn lên giữa muôn vàn thử thách.
Chính từ nền tảng vững chắc đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn 1954-1975 là quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa; quản lý hoạt động kim dụng bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và đấu tranh trên mặt trận tiền tệ với địch - một mặt trận cũng vô cùng cam go, quyết liệt. Từ những ngày cán bộ ngân hàng gùi bạc vượt núi; bám dân, in tiền trong hang đá Tuyên Quang, đến những ngày tỏa tới các điểm đổi tiền, quét sạch tiền Đông Dương sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và đợt đổi tiền đầu năm 1959, ngành Ngân hàng đã khẳng định bản lĩnh trong việc xây dựng và bảo vệ giá trị đồng tiền độc lập.
Không chỉ vậy, ngân hàng còn trở thành “huyết mạch” của nền kinh tế kháng chiến, vừa bảo đảm tài chính – tiền tệ cho Nhà nước, vừa trực tiếp góp phần vào thắng lợi của dân tộc. Ngành Ngân hàng vừa tham gia xây dựng kinh tế - xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vừa chi viện hiệu quả cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Con đường tiền tệ hình thành, bí mật vận chuyển, đổi ngoại tệ và tiếp nhận các nguồn viện trợ của bạn bè quốc tế chi viện cho chiến trường miền Nam đã trở thành một huyền thoại. Các phong trào tiết kiệm, phát hành công trái, huy động vốn trong dân đã trở thành nguồn lực quan trọng cho sản xuất, thương nghiệp, phát triển kinh tế miền Bắc. Vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần đắc lực phát triển sản xuất, cung ứng vốn kịp thời cho các công trình lớn, các công trình phòng không, sơ tán, di chuyển các xí nghiệp công nghiệp quan trọng, cấp vốn kịp thời cho công tác cứu chữa, phục hồi và đảm bảo giao thông thời chiến.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định và phát triển mạnh mẽ vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Điều này không chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước mà còn vươn ra tầm quốc tế. Đến năm 1964, ngành Ngân hàng đã mở rộng quan hệ giao dịch với 265 ngân hàng nước ngoài tại 41 quốc gia trên thế giới. Sự kết nối này đã thúc đẩy các hoạt động hối đoái, thanh toán và tín dụng quốc tế phát triển, góp phần tích cực vào công cuộc khôi phục kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ đối ngoại, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sau bao năm tháng chia cắt vì chiến tranh, năm 1975, hòa bình được lập lại, non sông liền một dải từ Bắc tới Nam, nước ta bước vào công cuộc tái thiết, khôi phục đất nước. Ngành Ngân hàng đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao - thống nhất tiền tệ toàn quốc. Cùng với sự hợp nhất Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ năm 1978 về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi cả hai loại tiền ngân hàng cũ ở cả hai miền của đất nước, thống nhất tiền tệ trong cả nước.
Giai đoạn 1981-1985 là một chặng đường đầy gian nan của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất - kinh doanh, cùng với hệ thống lưu thông và phân phối, đã gặp phải vô vàn thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực vượt bậc để vượt qua. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, chế độ nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản, ngoại hối; thực hiện “chính sách tín dụng tích cực, coi tín dụng là mặt trận phía trước”, mở ra nhiều hình thức cho vay mới nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt, góp phần thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, hỗ trợ ngành thương nghiệp quốc doanh thu mua nắm nguồn hàng phục vụ đời sống nhân dân và ổn định giá.
Cùng với đó, công cuộc thu đổi tiền tháng 9/1985 là một quyết sách kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước, nằm trong kế hoạch tổng điều chỉnh giá - lương - tiền. Chính sách này được thực hiện với mục tiêu cốt lõi là ổn định sức mua của đồng tiền, từ đó phục vụ hiệu quả cho công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Cuộc đổi tiền không chỉ là một thay đổi về mặt tiền tệ, mà còn là một nỗ lực lớn nhằm giải quyết những bất ổn trong hệ thống phân phối và lưu thông, góp phần bình ổn thị trường và tạo đà cho sự phát triển của đất nước.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngành Ngân hàng cũng phát huy tốt vai trò huyết mạch của nền kinh tế
Hòa cùng nhịp đập phát triển của đất nước
Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới từ năm 1986 trong điều kiện vô vàn khó khăn, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, bị bao vây, cấm vận sau chiến tranh, tuy nhiên với bản lĩnh, trí tuệ, đoàn kết, Đảng ta vẫn luôn là ngọn đuốc sáng soi đường, định hướng phát triển đất nước; đã sáng suốt, kịp thời đưa ra các quyết sách lớn, phù hợp. Đáp ứng yêu cầu mới, ngành Ngân hàng đã không ngừng thay đổi, hoàn thiện, phát triển, tiếp tục ghi dấu ấn nổi bật: Cơ chế, chính sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng, ngoại hối không ngừng được hoàn thiện và phát huy hiệu quả; nguồn vốn tín dụng được khơi thông, tập trung cho sản xuất kinh doanh, cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng vào lĩnh vực ưu tiên, động lực phát triển vào chiến lược, định hướng lớn của đất nước; thể chế, hành lang pháp lý tiền tệ ngân hàng được xây dựng, củng cố toàn diện phù hợp với yêu cầu phát triển mới và tiệm cận với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực cấp chiến lược được quan tâm phát triển; hệ thống ngân hàng được mở rộng, được củng cố nâng cao năng lực, tiềm lực tài chính và hội nhập sâu rộng; sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từ đơn giản, truyền thống đã phát triển đa dạng, phong phú, tiện ích phù hợp với tình hình và xu thế, tiên phong trong chuyển đổi số, phát triển hạ tầng công nghệ. Nổi bật xuyên suốt đó là việc điều hành chính sách bản lĩnh, linh hoạt, đổi mới, hiệu quả, phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, đưa ra những quyết sách đúng, trúng, kể cả trong bối cảnh khó khăn chưa từng có tiền lệ, đã vượt qua tác động khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 từ Mỹ, đại dịch Covid-19 năm 2020-2021… đã góp phần quan trọng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng, đảm bảo an toàn hệ thống, nhờ đó đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế, nâng cao vị thế và đã được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế nâng hạng tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam.
Để có được những dấu ấn vẻ vang đó, khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và ngân hàng, luôn được Ngân hàng Nhà nước coi là trụ cột quan trọng, then chốt, tạo nền tảng thuận lợi và là động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển. Năm 1988, được coi là bước chuyển thời đại trong hoạt động ngân hàng. Khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT, lần đầu tiên, mô hình ngân hàng chuyển từ 1 cấp sang 2 cấp, tách bạch chức năng quản lý nhà nước của NHNN với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, Pháp lệnh NHNN năm 1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự chuyển đổi mạnh mẽ hoạt động ngân hàng sang cơ chế mới. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được ban hành năm 1997. Hai luật này được tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện trong những năm tiếp theo (2017, 2024, 2025) để phù hợp với yêu cầu, tình hình mới; khung pháp lý về thanh toán, ngoại hối, an toàn, phòng chống rửa tiền được xây dựng, ban hành, đã tạo nền tảng pháp lý hoàn thiện toàn diện trong lĩnh vực ngân hàng, với điều kiện pháp lý thông thoáng hơn, minh bạch hơn, phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa. Ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định thị trường ngoại tệ, đảm bảo sự an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo những cân đối lớn, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển.
Từ mức lạm phát phi mã lên tới 774,7% vào cuối năm 1986, nhờ các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp, lạm phát Việt Nam đã giảm xuống còn 17,6% vào năm 1992 và nhiều năm liền sau đó được giữ ở mức một con số và xuống một con số 5,2% vào năm 1993. Đây là tiền đề đặt nền móng cho một thời kỳ ổn định và phát triển bứt phá, bền vững suốt gần 40 năm qua. Trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, hay đại dịch Covid-19, biến động địa chính trị toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tốt - thuộc nhóm cao hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.
Lãi suất cũng luôn được Ngân hàng Nhà nước điều hành phù hợp, thúc đẩy, hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân. Tỷ giá được điều hành hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Thị trường ngoại tệ hoạt động thông suốt, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của doanh nghiệp và người dân, phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước. Dự trữ ngoại hối tăng giúp tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Thị trường vàng được chấn chỉnh và quản lý ổn định với việc tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 24 năm 2012.
Công tác điều hành tăng trưởng tín dụng liên tục được đổi mới. Nguồn vốn tín dụng được phân bổ hiệu quả kết hợp với nâng cao chất lượng, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Các chương trình tín dụng chính sách luôn được triển khai kịp thời, hiệu quả, góp phần quan trọng giúp Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo trước thời hạn, giúp người dân phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới; đẩy lùi tín dụng đen. Ngành Ngân hàng cũng tiên phong triển khai tín dụng xanh, tài chính bao trùm, tài chính vi mô, đồng hành với các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ ngân hàng được chú trọng đầu tư và hiện đại hóa, tạo thay đổi căn bản trong phương thức giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng, trong quản lý điều hành hoạt động ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng, hiện đại, mang lại nhiều tiện ích cho doanh nghiệp, người dân, nhất là các sản phẩm, dịch vụ ứng dụng nền tảng công nghệ số.
Ngân hàng Nhà nước được đánh giá là một trong những bộ ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số, không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý, hạ tầng phục vụ chuyển đổi số nhằm từng bước xây dựng hệ sinh thái số thông minh, bền vững, an ninh, an toàn bảo mật, bảo vệ khách hàng. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử hoạt động ổn định, an toàn, thông suốt, phục vụ tốt nhu cầu thanh toán của người dân.
Công tác hội nhập quốc tế tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, thể hiện hiệu quả vai trò cầu nối chính sách, đại diện Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, khẳng định vị thế và uy tín của ngành Ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng thu hút nguồn vốn nước ngoài cho phát triển kinh tế. Cùng với đó, nguồn nhân lực được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, tăng cường. Công tác thi đua khen thưởng kịp thời ghi nhận, vinh danh các tấm gương điển hình tiên tiến.
Không chỉ đồng hành cùng đất nước trong lĩnh vực kinh tế, với tinh thần tương thân, tương ái và trách nhiệm đối với cộng đồng, nhiều năm qua, ngành Ngân hàng luôn là một trong các bộ, ngành tích cực nhất triển khai hoạt động an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo hướng tới các đối tượng người nghèo, gia đình chính sách, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, qua đó, góp phần nâng cao, cải thiện đời sống của nhân dân.
Những đóng góp lớn lao của ngành Ngân hàng trong suốt hành trình qua đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã vinh dự được tặng thưởng Huân chương Sao vàng (năm 2006), Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1996, năm 2011 và năm 2016). Các tổ chức tiền tệ đặc biệt của ngành Ngân hàng phục vụ kháng chiến như N2683, B29 và C32 đã vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân… Những phần thưởng được trao cho ngành Ngân hàng là thành quả của lớp lớp các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, công chức ngành Ngân hàng.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng từng nhấn mạnh, bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đất nước ta cần nỗ lực không ngừng để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức nhằm đạt mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp phát triển vào năm 2045. Để thực hiện mục tiêu này, mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Ngân hàng cần tiếp tục kế thừa, phát huy cao độ truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước và đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhận thức, cách làm để cùng với toàn ngành Ngân hàng và cả hệ thống chính trị thực hiện thành công những định hướng, chiến lược phát triển bứt phá trong giai đoạn tới.
Với truyền thống vẻ vang, sự quyết tâm và hành trang của bản lĩnh, trí tuệ, đoàn kết, ngành Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục viết nên những trang sử hào hùng, tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế; đóng góp xứng đáng với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, từng bước xây dựng một Việt Nam phồn vinh hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc, vững vàng tiến bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Hương Giang
Nguồn TBNH : https://thoibaonganhang.vn/viet-tiep-trang-su-vang-cua-nganh-ngan-hang-trong-ky-nguyen-moi-169644.html