VKSND Tối cao kháng nghị hủy án vụ tranh chấp đất giữa SASCO và hộ dân ở Phú Quốc

VKSND Tối cao kháng nghị hủy án vụ tranh chấp đất giữa SASCO và hộ dân ở Phú Quốc
8 giờ trướcBài gốc
Mới đây, VKSND Tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm vụ tranh chấp đất tại Phú Quốc giữa Công ty Cổ phần Dịch vụ Hàng không Sân bay Tân Sơn Nhất (SASCO) và hộ ông V (một hộ dân tại đây).
Theo Quyết định kháng nghị, VKSND Tối cao đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 456/2024/DS-PT ngày 24-6-2024 của TAND Cấp cao tại TP.HCM, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 21-3-2023 của TAND tỉnh Kiên Giang vì hai bản án này đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; tạm đình chỉ thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 456/2024/DS-PT ngày 24-6-2024 của TAND Cấp cao tại TP.HCM cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
Khu đất tranh chấp đất giữa SASCO và hộ dân ở Phú Quốc.
Đất đã được cấp sổ nhưng vẫn bị tranh chấp
Theo hồ sơ, năm 2003, SASCO nhận chuyển nhượng hợp pháp thửa đất diện tích 2.200 m² tại Khu phố 1, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (nay là đặc khu Phú Quốc thuộc tỉnh An Giang) từ bà H.
UBND tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho SASCO ngày 27-6-2003. Từ đó đến nay, doanh nghiệp quản lý, nộp thuế và sử dụng khu đất ổn định, không có tranh chấp cho đến khi phát sinh vụ việc.
Trong tài liệu hành chính liên quan, Quyết định 39/1992 của UBND huyện Phú Quốc thể hiện việc thu hồi khoảng 2 ha đất của hộ ông V. Tuy nhiên, sơ đồ hiện trạng do Thanh tra tỉnh Kiên Giang lập ngày 23-2-2001, có chữ ký của ông V, cho thấy phần đất mà SASCO nhận chuyển nhượng nằm ngoài khu vực bị thu hồi.
Năm 2011, SASCO phát hiện có hộ dân sử dụng và xây dựng công trình trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình nên khởi kiện ra TAND tỉnh Kiên Giang.
Vụ án được thụ lý và trải qua nhiều lần xét xử, kéo dài hơn 10 năm. Năm 2019, tòa sơ thẩm tuyên bản án lần đầu, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của SASCO. Năm 2021, TAND Cấp cao tại TP.HCM xử phúc thẩm, tuyên hủy án sơ thẩm và giao xét xử lại. Năm 2023, TAND tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lần hai.
Đến ngày 24-6-2024, TAND Cấp cao tại TP.HCM ban hành Bản án phúc thẩm số 456/2024/DS-PT, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của SASCO.
Sau bản án này, SASCO có đơn đề nghị xem xét giám đốc thẩm gửi VKSND Tối cao.
VKSND Tối cao: Sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật
Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, ngày 8-10, VKSND Tối cao đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Theo kháng nghị, VKSND Tối cao nhận định:
Thứ nhất: Theo tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án và kết quả xác minh thực tế của VKSND Tối cao, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp nằm ngoài thửa đất Nhà nước thu hồi của ông V vào năm 1992:
Phần đất tranh chấp có nguồn gốc do bà L khai phá, sử dụng từ năm 1979. Năm 1993, bà này lập giấy viết tay chuyển nhượng cho bà M. Năm 1994, bà M cho con là bà H. Sau đó, bà H kê khai và được cấp sổ năm 2001. Năm 2003, bà H chuyển nhượng cho Công ty SASCO.
Phần đất này giáp đường Hùng Vương, chiều rộng 49,99 m, chiều dài nhất 44,30 m. Trong khi đó, theo biên bản làm việc với Thanh tra tỉnh vào năm 2001 và sơ đồ thực trạng đất tại khu vật tư cầu mới, khu phố 1, thị trấn Dương Đông do Thanh tra đo đạc ngày 23-2-2001, có ông V ký xác nhận, thì phần đất Nhà nước thu hồi của ông V vào năm 1992 nằm ở bên trong, không nằm ở mặt đường; vị trí gần nhất cách mặt đường 52 m.
Quá trình giải quyết vụ án, UBND tỉnh Kiên Giang và UBND huyện Phú Quốc cũng xác định thửa đất của bà H bán cho SASCO nằm ngoài thửa đất Nhà nước thu hồi của ông V năm 1992 nhưng không được Tòa án hai cấp xem xét.
Thứ hai: Ông V đòi lại đất cũ là không có cơ sở, vì ông V chỉ được đền bù công khai phá; thực tế, ông V đã nhận 3 nền nhà diện tích 1.500 m², được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng cho đến nay.
Theo tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án, năm 1975, ông V nộp đơn xin khai phá 20.000 m² (đo đạc thực tế là 26.589,2 m²). Ông V canh tác một thời gian nhưng không hiệu quả (đất nhiễm phèn) nên bỏ hoang.
Năm 1992, UBND huyện Phú Quốc quy hoạch làm khu công nghiệp, nên đã thu hồi toàn bộ diện tích đất của ông V, nhưng không bồi thường công khai phá, tôn tạo đất và thành quả lao động, nên ông V khiếu nại.
Ngày 11-1-2001, UBND huyện Phú Quốc ban hành quyết định không chấp nhận khiếu nại của ông V, nhưng cho ông V thuê 3 nền đất diện tích 1.500 m² (mỗi nền 500 m²) để sử dụng. Ông V không đồng ý và tiếp tục khiếu nại lên cấp trên.
Ngày 15-5-2001, UBND tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại với nội dung: Không chấp nhận khiếu nại đòi đất của ông V; giao UBND huyện Phú Quốc cấp cho ông V 03 nền đất bằng 1.500 m² để sử dụng.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, ngày 5-9-2001, UBND huyện Phú Quốc ban hành Quyết định số 592 giao cho ông V 3 nền đất bằng 1.500 m². Đến ngày 29-8-2003, UBND huyện Phú Quốc đã cấp sổ hồng cho ông V. Ông V đã nhận đất, xây nhà, sử dụng từ đó đến nay và không khiếu nại gì về việc bị thu hồi đất khai phá trước đây.
Khu đất trong vụ tranh chấp kéo dài hơn một thập kỷ.
Thứ ba: Khiếu nại của ông V đã được giải quyết bằng Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang. Quyết định này không bị khởi kiện và đang có hiệu lực, nhưng Tòa án hai cấp vẫn xác định đây là đất cũ của ông V và công nhận cho ông V là trái pháp luật.
Như vậy, theo kháng nghị, có cơ sở xác định phần đất tranh chấp là do bà L khai phá, bán cho bà M, bà M cho lại bà H và bà H bán cho Công ty SASCO; phần đất này nằm ngoài diện tích đất Nhà nước thu hồi của ông V vào năm 1992.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã đánh giá không đúng các tài liệu có trong hồ sơ, nên xác định sai phần đất tranh chấp là đất của ông V khai phá; không xem xét việc ông V đã được đền bù công khai phá bằng 03 nền nhà diện tích 1.500 m² và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã nhận đất và sử dụng cho đến nay; không xem xét việc khiếu nại của ông V đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực pháp luật, không bị khởi kiện.
Từ đó, quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
TRẦN MINH
Nguồn PLO : https://plo.vn/vksnd-toi-cao-khang-nghi-huy-an-vu-tranh-chap-dat-giua-sasco-va-ho-dan-o-phu-quoc-post877246.html