Ngày 31-3, TAND tỉnh Đắk Nông tuyên chấp nhận kháng cáo của bà PTB (47 tuổi, ngụ xã Nam Dong, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông) trong vụ kiện tranh chấp tài sản là quyền sử dụng đất.
Vợ cũ đòi tài sản sau hơn 20 năm ly hôn
Bà PTB là vợ ông HĐĐ (65 tuổi). Trước đó, vợ cũ của ông HĐĐ là bà NTĐ (58 tuổi, ngụ TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) khởi kiện vợ chồng bà B, đòi tài sản là thửa đất và căn gỗ trên đất. Bà Đ trở về, khởi kiện đòi tài sản sau hơn 20 năm ly hôn với ông HĐĐ.
Căn nhà gỗ liên quan vụ kiện. Ảnh: T.T
Theo hồ sơ, năm 1996, bà Đ và ông HĐĐ ly hôn. Tài sản, con cái được TAND huyện Cư Jút phân chia theo quyết định thuận tình ly hôn.
Năm 1998, vợ chồng ông Đ tái hợp nhưng không đăng ký kết hôn. Đến năm 2000, tình cảm vợ chồng ông Đ tiếp tục đổ vỡ, hai người một lần nữa dắt nhau ra tòa, phân chia tài sản sau ly hôn.
Đến năm 2001, ông HĐĐ lấy vợ mới là bà B. Năm 2016, ông Đ bị tai biến, mất trí nhớ, sau đó mất năng lực hành vi dân sự.
Đến năm 2017, bà Đ trở về, yêu cầu vợ chồng ông HĐĐ đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ hồng) được cấp hồi 1993 để tách thửa, chia đất cho con trai chung nhưng không được đồng ý nên khởi kiện.
Theo đơn khởi kiện, bà Đ cho biết căn cứ các quyết định hồi năm 1996 và năm 2000 của TAND huyện Cư Jút, bà được quyền sở hữu 950 m2 (thực tế là 840 m2) đất ở và tài sản là căn nhà gỗ trên đất. Tuy nhiên, bà Đ chưa nhận đất.
Đến năm 2017 con trai chung của bà Đ và ông HĐĐ học xong đại học, chuẩn bị xây dựng gia đình. Bà Đ đến lấy sổ hồng để đi tách thửa, chuẩn bị cho con trai lập gia đình nhưng không được chấp nhận nên khởi kiện.
Xử sơ thẩm hồi năm 2024, TAND huyện Cư Jút chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Tòa buộc vợ chồng ông HĐĐ và vợ mới phải trả cho bà Đ 840 m2 đất ở tại xã Nam Dong, huyện Cư Jút và tài sản gắn liền trên đất là căn nhà gỗ.
Sau đó, vợ mới của ông Đ là bà PTB kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do cho rằng việc phân chia tài sản giữa chồng bà và bà Đ đã được thực hiện xong từ năm 2000.
Chấp nhận kháng cáo, hủy án sơ thẩm
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà B cung cấp cho HĐXX biên bản giải quyết thi hành án (bản photocopy) hồi năm 2000 của Đội Thi hành án dân sự (THADS) huyện Cư Jút.
Bị đơn cho rằng, căn nhà gỗ và thửa đất đã được thỏa thuận thi hành án xong hồi năm 2000. Ảnh: T.T
Theo nội dung biên bản này, ông HĐĐ đồng ý giao cho bà Đ được quyền sở hữu và định đoạt một xe máy giá trị 18 triệu đồng. Ngoài ra, ông HĐĐ có trách nhiệm trả nợ ngân hàng 10 triệu đồng; cộng các khoản khác là 34 triệu đồng.
Bà Đ đồng ý giao lại cho ông HĐĐ được quyền sử dụng và định đoạt căn nhà gỗ cùng thửa đất 950 m2 đã chia cho bà trước đó.
Biên bản nói trên có chữ ký của chấp hành viên, chữ ký ông HĐĐ và có chữ ký mang tên bà Đ.
Tại tòa, người làm chứng là ông Nguyễn Trọng Thuyết xác nhận ngày 27-10-2000, tại trụ sở Đội THADS huyện Cư Jút (nay là Chi cục THADS huyện Cư Jút), ông đã lập biên bản giải quyết thi hành án đối với ông HĐĐ và bà NTĐ.
Theo ông Thuyết, chữ viết tại biên bản giải quyết thi hành án ngày 27-10-2000 là do chính ông viết và sau đó ký tên vào phần chấp hành viên. Tại buổi làm việc ông HĐĐ và bà Đ cũng tự nguyện thỏa thuận và ký, ghi rõ họ tên vào phần người trình bày. Sau khi giải quyết xong ông đã lưu hồ sơ vào kho theo thủ tục hành chính.
Tại tòa, người đại diện theo ủy quyền của bà Đ cho rằng, bà này không biết, không ký vào biên bản nói trên. Bên khởi kiện cũng cho rằng giấy tờ này không có giá trị pháp lý, không phải là giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Phía bà B, cho rằng sau khi quyết định của TAND huyện Cư Jút có hiệu lực, ông HĐĐ và bà Đ đã yêu cầu thi hành án về việc phân chia tài sản. Sau đó, hai bên đã tiến hành thỏa thuận giải quyết, có sự chứng kiến của lực lượng thi hành án. Việc thỏa thuận thi hành án đã được lập biên bản đầy đủ.
Đến nay, hơn 20 năm các bên đã hoàn thành nghĩa vụ theo thỏa thuận. Ông HĐĐ đã thanh toán tiền ngân hàng, bà Đ đã lấy tài sản thỏa thuận nên giao nhà và đất cho ông HĐĐ quản lý, sử dụng liên tục không tranh chấp.
Vẫn lời bà B, các tài sản nêu trên đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết bằng quyết định, bản án có hiệu lực. Vì vậy, bà B đề nghị HĐXX bác đơn khởi kiện, đình chỉ giải quyết vụ án nêu trên.
Theo tòa phúc thẩm, biên bản giải quyết thi hành án ngày 27-10-2000 có dấu của cơ quan thi hành án, có xác nhận của chấp hành viên. Ngoài ra, HĐXX đã triệu tập chấp hành viên liên quan để làm rõ nội dung của biên bản.
Tại tòa, chấp hành viên thừa nhận chữ ký, chữ viết trong biên bản là của mình. Tòa nhận định đủ cơ sở để xác định các nội dung trong đơn khởi kiện của bà Đ đã được giải quyết.
Vì vậy, tòa tuyên chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà B; hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Theo HĐXX, lẽ ra khi tiếp nhận đơn khởi kiện, tòa cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn. Tuy nhiên, tòa cấp sơ thẩm vẫn thụ lý giải quyết, chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn là không đúng quy định.
Thất lạc hồ sơ thi hành án
Do chồng đã mất trí nhớ, mất năng lực hành vi dân sự nên từ khi vướng vào vụ kiện, bà B tự thu thập các tài liệu, bằng chứng để chứng mình chồng mình và vợ cũ (tức bà Đ) đã thỏa thuận phân chia tài sản.
Tháng 6-2024, Cục THADS tỉnh Đắk Nông có công văn trả lời bà B, xác định giữa ông HĐĐ và bà Đ đã giải quyết xong việc thi hành án từ ngày 27-10-2000.
Tuy nhiên, tháng 2-2025, Cục THADS tỉnh Đắk Nông đã thu hồi công văn nêu trên.
Theo Cục THADS tỉnh Đắk Nông, quá trình kiểm tra, xác định tại Đội THADS huyện Cư Jút (nay là Chi cục THADS huyện Cư Jút), đã để thất lạc hai hồ sơ thi hành án gồm: Hồ sơ thi hành án chủ động đối với khoản mà bà NTĐ phải thi hành 50.000 đồng; hồ sơ thi hành án số 22 ngày 6-10-2000 theo quyết định của TAND huyện Cư Jút.
Do hồ sơ thi hành án bị thất lạc có liên quan đến đề nghị của bà B. Vì vậy, Cục THADS tỉnh Đắk Nông khẳng định thiếu căn cứ để trả lời đề nghị của bà B và thu hồi công văn trả lời hồi năm 2024.
TIẾN THOẠI