Vợ trốn nợ, chồng có thể tự ý bán nhà đất chung không?

Vợ trốn nợ, chồng có thể tự ý bán nhà đất chung không?
một ngày trướcBài gốc
Vợ tôi do làm ăn thua lỗ, mắc nợ nhiều nơi và đã bỏ trốn khỏi địa phương để tránh trả nợ. Hiện nay, gia đình chúng tôi có một căn nhà đất chung đứng tên cả hai vợ chồng. Tôi muốn hỏi, trong trường hợp này, tôi có quyền tự ý bán căn nhà đất đó để trả nợ hoặc giải quyết các vấn đề tài chính của gia đình hay không?
Bạn đọc Đỗ Báu (Long An)
Giải đáp thắc mắc trên, luật sư Nguyễn Thị Lệ Kiều, Đoàn Luật sư TP.HCM, trả lời:
Hiện nay, việc định đoạt tài sản chung là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (theo khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Cụ thể, khi bán nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng thì cần phải có sự đồng ý và chữ ký của cả hai vợ chồng, trừ trường hợp một trong hai người ủy quyền cho người còn lại thực hiện ký thay trong hợp đồng mua bán.
Đồng thời, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng (theo Điều 31 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).
Như vậy, về nguyên tắc, nếu không có sự đồng ý hoặc ủy quyền hợp pháp của người vợ, người chồng không có quyền đơn phương bán nhà, đất là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Quyền sử dụng đất thường được coi là tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Ảnh: Al.
LS Kiều cho biết nếu muốn bán nhà đất chung trong trường hợp người vợ bỏ trốn khỏi địa phương, người chồng có thể tham khảo các phương án xử lý sau:
Phương án 1: Người vợ lập văn bản ủy quyền cho người chồng thực hiện việc chuyển nhượng tài sản chung
Căn cứ khoản 2 Điều 24 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép vợ, chồng ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà pháp luật yêu cầu có sự đồng ý của cả hai. Hợp đồng ủy quyền không bắt buộc phải công chứng theo Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Công chứng 2014, nhưng trong thực tiễn, để thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục tại các cơ quan có thẩm quyền và đảm bảo giá trị pháp lý, hợp đồng ủy quyền nên được công chứng.
Lưu ý: Trong phương án này, người vợ buộc phải xuất hiện để ký văn bản ủy quyền.
Phương án 2: Hai bên thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép vợ chồng thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Thỏa thuận này phải được lập thành văn bản; văn bản này được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định pháp luật.
Cũng theo Điều 42 Luật này, thỏa thuận chia tài sản nếu nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, gia đình, con chưa thành niên hoặc con mất năng lực hành vi dân sự thì có thể bị tuyên vô hiệu.
Do đó, khi lập thỏa thuận, hai bên phải để lại phần tài sản hợp lý để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chung, trong đó có nghĩa vụ trả nợ.
Thực tế cho thấy, việc công chứng thỏa thuận chia tài sản tuy không luôn bắt buộc nhưng vẫn nên được thực hiện để đảm bảo giá trị pháp lý và thuận tiện trong các thủ tục hành chính sau này (tại Điều 30 Nghị định 101/2024).
Phương án 3: Người chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Tại khoản 3 Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định nếu không thể thỏa thuận, một bên có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trình tự giải quyết tuân theo Điều 59 Luật này và quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Người chồng có thể khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, trong đó đề nghị được nhận quyền sử dụng nhà, đất và thanh toán phần giá trị tương ứng cho người vợ bằng tiền. Nếu người vợ vắng mặt, sau hai lần triệu tập hợp lệ mà vẫn không đến hoặc không có đại diện đến thì Tòa án sẽ xét xử vắng mặt theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Sau khi bản án có hiệu lực và người chồng đã thanh toán phần giá trị cho vợ thông qua cơ quan thi hành án, cơ quan này sẽ cấp xác nhận đã thi hành xong. Khi đó, người chồng có thể đăng ký biến động quyền sử dụng đất và thực hiện việc chuyển nhượng theo nhu cầu của mình.
Như vậy tùy vào điều kiện cụ thể và khả năng liên lạc với người vợ, người chồng có thể cân nhắc lựa chọn phương án phù hợp. Theo đó, nếu vẫn có thể liên lạc và gặp mặt người vợ thì nên ưu tiên phương án 1 hoặc phương án 2 để rút ngắn thời gian, thủ tục và chi phí.
Nếu hoàn toàn không thể gặp mặt hoặc người vợ cố tình không hợp tác thì người chồng nên áp dụng phương án 3, khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình và tránh rủi ro pháp lý khi tự ý chuyển nhượng tài sản chung.
THẢO HIỀN
Nguồn PLO : https://plo.vn/vo-tron-no-chong-co-the-tu-y-ban-nha-dat-chung-khong-post852221.html