Vốn FDI: 'Đòn bẩy' chiến lược cho công nghiệp hóa tại Việt Nam

Vốn FDI: 'Đòn bẩy' chiến lược cho công nghiệp hóa tại Việt Nam
5 giờ trướcBài gốc
Góp phần xây dựng nền công nghiệp vững mạnh
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối Đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trên cơ sở đó, cuối năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tọa đàm Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp như thế nào đếncông nghiệp hóa tại Việt Nam diễn ra vào sáng 7/8, tại Hà Nội. Ảnh: Hà Linh
Phát biểu tại Tọa đàm Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp như thế nào đến công nghiệp hóa tại Việt Nam diễn ra vào sáng 7/8, tại Hà Nội, các chuyên gia kinh tế cho rằng, sau gần 40 năm (1987-2025) thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo ra "đòn bẩy" cho chiến lược công nghiệp hóa tại Việt Nam.
Cụ thể, theo TS Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập - Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính): FDI đã góp phần xây dựng nền công nghiệp vững mạnh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hạ tầng đô thị; phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
TS Bùi Quý Thuấn - Trưởng Ban Nghiên cứu Liên Chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA) cũng đánh giá: Cơ cấu FDI đã có sự chuyển dịch tích cực. Từ năm 2010 - 2024, vốn FDI chuyển từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghệ cao, với tỷ trọng ngành điện tử tăng từ 4,1% lên 17,8%. Các lĩnh vực như tài chính, năng lượng tái tạo và dịch vụ giá trị gia tăng cao cũng thu hút vốn mạnh mẽ.
"FDI đã thúc đẩy xuất khẩu, với khu vực này chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, giúp Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Các tập đoàn như Samsung, Intel và LG đã biến Việt Nam thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu" - ông Bùi Quý Thuấn khẳng định.
Báo cáo tại tọa đàm cũng cho thấy, sau gần 40 năm thu hút FDI, cơ cấu kinh tế đã có sự cải thiện theo hướngcông nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đã tăng từ 73,5%năm 2011 lên 79,9% năm 2024. Năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) cải thiện đángkể, từ vị trí 95 vào năm 1990đã lên vị trí 31 vào giai đoạn 2019-2022. Sự cải thiện này chủ yếuđến từ năng lực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa chế tạo.
Theo các chuyên gia, FDI được đánh giá là xương sống của cácngành công nghiệp chủ lực hiện nay của Việt Nam, vì dù chỉ chiếm 8% về số lượng doanhnghiệp trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhưng khu vực FDI kiểm soát tới 56,3% tổng vốn đầu tư, tạo ra61,9% tổng doanh thu và sử dụng 59,7% tổng lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp, các chuyên gia cũng chỉ rõ những tồn tại của khu vực FDI thời gian qua. Trong đó, mặc dù thu hút một lượng lớn lao động tại Việt Nam, tuy nhiên, mô hình kinh doanh của khu vực FDI vẫn chủ yếu dựa vào việc khai thácnguồn lao động giá rẻ, tay nghề thấp, khoảng 72,1% lao động chưa qua đào tạo.Năng suất lao động của khu vực FDI cũng có xu hướng tăng chậmvà không ổn định.
Các chuyên gia đánh giá, FDI đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa tại Việt Nam. Ảnh: Hà Linh
6 bước tạo đột phá trong thu hút FDI
Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, mặc dù Việt Nam đang nổi lên là một địa điểm đầu tư hấp dẫn nhưng những điểmnghẽn về lao động, hạ tầng sẽ là "điểm yếu" cốt lõitác động đến dòng chảy của FDI vào Việt Namthời gian tới. Cùng với đó, Cách mạngcông nghiệp 4.0 cũng là nhân tố tác động cả tích cực và tiêu cựcđến dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Trong bối cảnh xu hướng dịch chuyểnchuỗi cung ứng vàđể đạt được các mục tiêu công nghiệp hóa, Việt Nam cần có sự thay đổicăn bản trong tư duy chính sách, chuyển từ thu hút FDI bằng mọi giá sang cách tiếp cậnchủ động, dẫn dắt và điều hướng dòng vốn FDI phục vụ hiệu quả các mục tiêu quốc gia.Bên cạnh những cải cách về thể chế, hành chính hiện nay.
Báo cáo cũng đề xuất, Việt Nam cần tập trung 6bướccải cách đột phá trong thu hút và sử dụng FDI,bao gồm:Thứ nhất, cần cải tổ toàn diện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng có mục tiêu, dựatrên hiệu quả và có điều kiện ràng buộc, chấm dứt ưu đãi dàn trải.
Thay vào đó, xâydựng một khung ưu đãi mới, có chọn lọc cao, trong đó mức độ ưu đãi phụ thuộc trực tiếpvào kết quả thực hiện các cam kết của dự án FDI thông qua: Tỷ lệ chi tiêu cho R&D (nghiên cứu và phát triển) tại ViệtNam; mức độ chuyển giao công nghệ; tỷ lệ nội địa hóa; và mức độ đầu tư vàođào tạo nhân lực chất lượng cao. Đi kèm với những cải cách này là cải tổ căn bản chínhsách công nghiệp ở Việt Nam, tạo điều kiện để dòng FDI lan tỏa tác động tích cực vềcông nghệ, năng suất.
Thứ hai, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong nước và xây dựng ngành côngnghiệp hỗ trợ thực chất: Triển khai "chương trình phát triển nhà cung cấp cấp quốc gia"để hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tiềm năng về quản trị, công nghệvà tiếp cận tín dụng. Xây dựng nền tảng kết nối giữa doanhnghiệp FDI và nhà cung ứng trong nước để giải quyết vấn đề thiếu thông tin.
Cung cấpcác gói hỗ trợ phù hợp với từng quy mô doanh nghiệp và đặc thù ngành nghề để biến đẩy liên kết FDI. Các giải pháp này đòi hỏi sự can thiệp có chọn lọccủa nhà nước, từ việc tạo thị trường cho tới việc đầu tư vào R&D quốc gia và thu hút FDIcam kết chuyển giao công nghệ thực chất.
Thứ ba, đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chấtlượng cao: Thúc đẩy mô hình hợp tác chiến lược "Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệpFDI" một cách thực chất. Khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn tham gia sâu vào quátrình xây dựng chương trình đào tạo, tài trợ phòng thí nghiệm và tiếp nhận sinh viên thựctập. Đồng thời, có chính sách đột phá để thu hút và giữ chân các tài năng công nghệ.
Thứ tư, thiết lập khung quản trị thu hút FDI có sự phối hợp liên ngành, liên vùng:Xây dựng một cơ chế điều phối cấp quốc gia để phân định rõ vai trò giữa trung ương vàđịa phương, nhằm chấm dứt "cuộc đua xuống đáy" về ưu đãi giữa các tỉnh, đảm bảo thuhút FDI có quy hoạch và chiến lược thống nhất.
Thứ năm, tăng cường năng lực quản trị môi trường đối với FDI: Siết chặt việc thựcthi pháp luật môi trường, áp dụng quy trình đánh giá tác động môi trường mộtcách độc lập và minh bạch, đồng thời tăng nặng các chế tài xử phạt. Song song, tiếp tụchoàn thiện chính sách để khuyến khích và thu hút FDI xanh, đặc biệt trong lĩnh vực nănglượng tái tạo.
Thứ sáu, nâng cao năng lực thể chế và hiệu quả thực thi chính sách: Nâng cao nănglực thẩm định dự án cho cán bộ địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăngcường minh bạch và quyết liệt giảm chi phí không chính thức để tạo môi trường kinhdoanh thực sự công bằng.
Hiện Việt Nam đã thu hút được 43.346 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 517,14 tỷ USD. Trong đó, vốn FDI thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 331,46 tỷ USD, bằng gần 64,6% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Nguyễn Hòa
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/von-fdi-don-bay-chien-luoc-cho-cong-nghiep-hoa-tai-viet-nam-414195.html