Trong vụ án này, nguyên đơn Vũ Đức V, sinh năm 1950, ở khu 22, xã Tu Vũ là con trưởng thay mặt 7 em và các con của một người em đã mất, khởi kiện ông Vũ Đức H, sinh năm 1958, khu 6, xã Tu Vũ, em trai thứ 4. Còn bà Vũ Thị M, con thứ hai, là người đứng về phía bị đơn Vũ Đức H.
Theo đơn khởi kiện, cha mẹ các đương sự sinh được 11 con, năm 1962, cha mẹ các đương sự nhận chuyển nhượng và sử dụng mảnh đất 1.213m2 từ một người cùng xã. Năm 1984, cha mẹ cho ông Vũ Đức H 138m2 trong mảnh đất này để làm nhà riêng.
Cha mẹ mất không để lại di chúc. Năm 2020, ông V họp 11 anh chị em bàn xây nhà từ đường trên 1.075m2 còn lại nhưng ông H không đồng ý và cho rằng nhà đất này giờ đã thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông và ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) vào năm 2005.
Ông V cho rằng việc em trai đứng tên tài sản khi không có văn bản bố mẹ ủy quyền, tặng cho, không qua họp gia đình là trái luật. 7 anh chị em đã ủy quyền cho ông khởi kiện, đề nghị ông H chỉ được giữ 138m2, phần còn lại 1.075m2 chia đều cho 10 anh, em.
Còn ông H khẳng định, từ năm 1984, bố mẹ ông đã cho ông làm nhà cố định và sử dụng toàn bộ mảnh đất 1.213m2, ông đã nhiều lần tôn tạo và đổ đất, trồng trọt, xây chuồng trại, chăn nuôi trên mảnh đất đó và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Năm 1992, bố mẹ ông đã lên UBND xã Hoàng Xá (nay là xã Tu Vũ) làm thủ tục cho ông mảnh đất nêu trên, UBND xã đã xác lập vào sổ mục kê, thửa đất. Từ đó, ông tôn tạo, xây tường bao, đóng thuế đất và sử dụng ổn định, đăng ký trên sổ địa chính. Ông H còn cho biết, từ năm 1992, ngay sau khi cho con đất, cha mẹ đã mua khu đất khác cùng xã, sinh sống ổn định đến khi qua đời vào năm 2001 và 2015, 11 anh em đã bán khu đất này chia nhau.
Theo ông H, toàn bộ di sản thừa kế lâu nay đã được định đoạt xong, không ai có ý kiến gì về mảnh đất 1.213m2 ông đang ở và đứng tên. Nhưng nay do “sốt đất”, các anh chị em “bỗng dưng đòi quyền lợi”, vì thế ông không chấp nhận. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Căn cứ lời khai, chứng cứ tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy, năm 2000 có chủ trương cấp GCNQSĐ đồng loạt cho các hộ trên địa bàn xã Hoàng Xá của UBND huyện Thanh Thủy cũ. Ông H được bố mẹ cho thửa đất diện tích 1.075m2 và ông đã kê khai để đề nghị cấp GCNQSDĐ. Ngày 1/7/2001, UBND xã đã niêm yết công khai hồ sơ đăng ký đất và danh sách các hộ tại UBND xã đồng thời thông báo trên đài phát thanh xã.
Sau 15 ngày UBND xã không nhận được đơn khiếu nại nào nên ngày 15/7/2001 UBND xã đã lập biên bản kết thúc công khai hồ sơ đăng ký đất và cùng ngày UBND xã đã lập tờ trình gửi UBND huyện về việc xin cấp GCNQSDĐ, đến ngày 19/12/2005 thì ông H được cấp GCNQSDĐ.
Toàn cảnh phiên tòa xét xử
Theo HĐXX, đất đai là tài sản có giá trị, nhưng tình cảm anh em ruột thịt mới là điều thiêng liêng, cần được gìn giữ. Trong vụ án này, một số đương sự cho rằng phần đất tranh chấp cần được giữ lại để làm nơi thờ tự, tuy nhiên pháp luật hiện hành không hạn chế quyền tặng cho, nhận tặng cho của những người khác.
Theo quy định tại Điều 500 và Điều 502 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực và đăng ký theo Luật Đất đai. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp các bên không tuân thủ đầy đủ hình thức pháp lý nhưng đã thực hiện hành vi dân sự cụ thể như: Bên tặng cho giao đất, bên được tặng cho nhận đất, trực tiếp quản lý, sử dụng công khai, ổn định và liên tục.
Trong trường hợp này, việc chiếm hữu của bên nhận đất được coi là chiếm hữu ngay tình theo Điều 180 và Điều 183 Bộ luật Dân sự, được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, Điều 2, Điều 73, Điều 74 Luật Đất đai 1993, Điều 50 Luật Đất đai 2003, Điều 166 Luật Đất đai 2013 cũng thừa nhận quyền của người sử dụng đất khi có căn cứ xác lập hợp pháp, thông qua việc thực hiện quyền chuyển giao trên thực tế. Do đó, để đảm bảo công bằng, bảo vệ ý chí tự nguyện và lợi ích chính đáng của các bên, Tòa án xác định việc tặng cho quyền sử dụng đất trên thực tế là đã hoàn thành.
Từ các lập luận trên, HĐXX không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đức V (đồng thời đại diện cho 7 người em và các con của một em đã mất); không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của ông Vũ Đức V.
HĐXX bác đơn khởi kiện của nguyên đơn
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Huy Thắng