Vụ án xảy ra tại Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế: Thủ đoạn gây khó, ép chi tiền

Vụ án xảy ra tại Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế: Thủ đoạn gây khó, ép chi tiền
3 giờ trướcBài gốc
Ba cựu lãnh đạo Cục An toàn thực phẩm
Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã hoàn tất kết luận điều tra, đề nghị truy tố 55 bị can trong vụ án xảy ra tại Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế và các đơn vị liên quan.
Trong số này, 2 cựu Cục trưởng là Nguyễn Thanh Phong, Trần Việt Nga, cùng 2 cựu Phó cục trưởng Nguyễn Hùng Long, Đỗ Hữu Tuấn và 30 người là lãnh đạo phòng, giám đốc trung tâm, chuyên viên, nhân viên hợp đồng của Cục An toàn thực phẩm bị đề nghị truy tố về tội “Nhận hối lộ”.
21 bị can còn lại là lãnh đạo, nhân viên của các doanh nghiệp và cá nhân khác, bị đề nghị truy tố về tội “Đưa hối lộ”.
Các bị can này bị cáo buộc đã lợi dụng kẽ hở pháp luật, gây khó khăn trong giải quyết thủ tục để nhận hơn 107 tỷ đồng từ doanh nghiệp; trong khi đó các doanh nghiệp đưa hối lộ nhằm được cấp giấy phép, xác nhận quảng cáo và chứng nhận thực hành sản xuất tốt (GMP) trái quy định.
Thủ đoạn gây khó khăn, ép phải chi tiền
Theo kết luận điều tra, hành vi phạm tội tại Cục An toàn thực phẩm không diễn ra đơn lẻ, mà được tổ chức thành một cơ chế vận hành có chủ đích. Các bị can đã lợi dụng kẽ hở pháp luật, quyền hạn được giao và đặc thù của thủ tục hành chính để gây khó cho doanh nghiệp, từ đó buộc phải chi tiền ngoài quy định.
Xuất phát từ việc khai thác kẽ hở của Nghị định 15/2018/NĐ-CP. Dù được thiết kế theo hướng cải cách hành chính, giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, song nhiều quy định của nghị định mang tính chung chung, thiếu tiêu chí thẩm xét cụ thể, nhất là đối với hồ sơ công bố sản phẩm và xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Theo kết luận điều tra, hành vi đưa hối lộ trong vụ án không mang tính bị động hay bột phát, mà được doanh nghiệp và các cá nhân làm dịch vụ chủ động coi như một “chi phí bắt buộc” trong quá trình xin cấp phép, quảng cáo và thẩm định điều kiện sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Lợi dụng điều này, các bị can tại Cục An toàn thực phẩm nắm quyền diễn giải quy định, biến những điểm chưa rõ ràng thành công cụ gây khó.
Cụ thể, trong quá trình xử lý hồ sơ, dù doanh nghiệp đã nộp đủ giấy tờ theo quy định, hồ sơ vẫn thường xuyên bị yêu cầu sửa đổi, bổ sung nhiều lần với lý do không cụ thể, không nhất quán, thậm chí trái với hướng dẫn trước đó.
Một thủ đoạn phổ biến là cố tình để hồ sơ quá hạn. Theo đó, nhiều hồ sơ đủ điều kiện nhưng bị tồn đọng kéo dài, không ký duyệt. Khi doanh nghiệp hoặc người làm dịch vụ hỏi lý do, chuyên viên chỉ trả lời chung chung như “lãnh đạo bận”, “chưa xem hồ sơ”, hoặc “phải xin ý kiến thêm”, không đưa ra căn cứ chuyên môn.
Thêm vào đó, nhiều hồ sơ bị trả lại với những yêu cầu mơ hồ, khiến doanh nghiệp lúng túng, không biết phải chỉnh sửa theo tiêu chí nào. Từ đó, doanh nghiệp buộc phải tìm cách tiếp cận chuyên viên hoặc lãnh đạo để “nhờ hướng dẫn”, từng bước rơi vào cơ chế chi tiền ngoài quy định.
Song song với việc gây khó về thời gian, các bị can còn hợp thức hóa hành vi sai phạm bằng cách phân công thẩm xét không đúng chức năng, nhiệm vụ. Có hồ sơ được giao cho đơn vị hoặc cá nhân không đúng chuyên môn, làm kéo dài thời gian xử lý, phát sinh thêm yêu cầu không cần thiết, đẩy doanh nghiệp vào vòng luẩn quẩn “sửa - nộp lại - chờ đợi”.
Từ đó, trong nội bộ Cục An toàn thực phẩm dần hình thành một “luật ngầm”: hồ sơ muốn được giải quyết nhanh, ít bị trả lại, được cấp giấy đúng hạn thì phải chi tiền ngoài lệ phí.
Khi doanh nghiệp phản ánh hồ sơ chậm, các chuyên viên thường nói sẽ “lên xin ý kiến lãnh đạo”, rồi thông qua trung gian gợi ý chi tiền để hồ sơ “thuận lợi hơn”.
Đáng chú ý, hành vi phạm tội còn được che giấu tinh vi bằng quy trình nội bộ và hệ thống hồ sơ điện tử. Theo đó, hồ sơ được nộp trực tuyến, cấp mã và xử lý trên phần mềm vẫn thể hiện đúng trình tự, thời hạn sau khi đã có “tác động” bằng tiền.
Việc thỏa thuận và nhận tiền diễn ra ngoài hệ thống, thông qua tiền mặt hoặc chuyển khoản với nội dung “trả nợ”, “vay mượn”, hoặc ký hiệu riêng nhằm che giấu mục đích.
Trong lĩnh vực thẩm định điều kiện sản xuất và cấp giấy chứng nhận GMP, thủ đoạn này càng tinh vi. Đoàn thẩm định vẫn lập biên bản ghi nhận “còn tồn tại”, nhưng sau khi doanh nghiệp chi tiền, việc đánh giá lại chủ yếu dựa trên hồ sơ báo cáo, bỏ qua kiểm tra thực tế, để đề xuất cấp giấy chứng nhận.
Kết luận điều tra xác định, các bị can đã sử dụng chính vỏ bọc của quy trình hành chính để che giấu hành vi nhận hối lộ, xây dựng một cơ chế gây khó có chủ đích, buộc doanh nghiệp phải chấp nhận “luật ngầm”, làm biến dạng nghiêm trọng hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Cách “chia chác” tại Cục An toàn thực phẩm
Quá trình điều tra xác định, sau khi thiết lập cơ chế gây khó để buộc doanh nghiệp phải chi tiền ngoài quy định, các bị can tại Cục An toàn thực phẩm đã tổ chức việc phân chia tiền hối lộ theo một hệ thống ổn định, có trật tự và duy trì trong nhiều năm.
Việc “chia chác” không mang tính tự phát, mà gắn chặt với vị trí công tác, vai trò trong từng khâu xử lý hồ sơ và mức độ chi phối đối với quy trình cấp phép.
Trong vụ án này, Nguyễn Thanh Phong và Trần Việt Nga được xác định có vai trò chủ mưu, cầm đầu. Với vị trí Cục trưởng và Phó cục trưởng, các bị can này nắm quyền phân công nhiệm vụ, chỉ đạo chuyên môn và ký duyệt cuối cùng đối với hồ sơ đăng ký công bố sản phẩm, xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Thông qua quyền hạn được giao, Phong và Nga duy trì “luật ngầm” trong toàn Cục: hồ sơ muốn được giải quyết nhanh, ít bị trả lại hoặc không phải sửa đổi nhiều lần thì phải có “chi phí”, ngoài lệ phí.
Việc phân chia tiền sau đó cũng được tổ chức theo từng tầng nấc, bắt đầu từ chuyên viên trực tiếp thẩm xét hồ sơ. Đây là những người tiếp xúc với doanh nghiệp hoặc cá nhân làm dịch vụ, trực tiếp nhận tiền bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Sau khi nhận, chuyên viên giữ lại phần được hưởng, đồng thời chuyển tiền lên cho lãnh đạo phòng hoặc đầu mối thu tiền theo sự phân công.
Trong nhóm phụ trách cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo, Trần Việt Nga trực tiếp chỉ đạo Trần Thị Thu Liễu làm đầu mối quản lý tiền thu từ doanh nghiệp và người làm dịch vụ. Theo chỉ đạo của Nga, Liễu quán triệt cho các chuyên viên phải trao đổi “kín đáo”, đồng thời thống nhất mức thu tiền ngoài quy định cho từng hồ sơ.
Cụ thể, với mỗi hồ sơ xin cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo, doanh nghiệp hoặc người làm dịch vụ phải chi từ 2 đến 8 triệu đồng. Số tiền này được chia theo tỷ lệ cố định: Trần Việt Nga hưởng từ 2 đến 3,5 triệu đồng; Trần Thị Thu Liễu hưởng từ 500.000 đến 700.000 đồng; chuyên viên thẩm xét hưởng từ 200.000 đến 250.000 đồng; phần còn lại dùng để chi cho các khâu liên quan theo phân công nội bộ.
Kết luận điều tra xác định, 6 chuyên viên thực hiện theo chỉ đạo của Trần Việt Nga đã nhận tổng cộng hơn 12 tỷ đồng từ các cá nhân có hồ sơ xin cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo. Toàn bộ số tiền này đều thu ngoài quy định, không nộp vào ngân sách nhà nước.
Việc chia tiền cũng diễn ra trong quá trình đăng ký công bố sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Sau khi hồ sơ được nộp trực tuyến và cấp mã, các cá nhân, tổ chức sẽ gửi mã hồ sơ cho chuyên viên để “được tạo điều kiện” trong quá trình thẩm xét.
Khi hồ sơ được cấp giấy tiếp nhận, doanh nghiệp tiếp tục chi thêm từ 5 đến 10 triệu đồng mỗi hồ sơ. Số tiền này được phân chia theo cơ chế tương tự, từ chuyên viên lên lãnh đạo phòng, trung tâm và lãnh đạo Cục.
Ở cấp lãnh đạo, Nguyễn Thanh Phong và Trần Việt Nga không trực tiếp nhận tiền từ doanh nghiệp nhưng hưởng lợi thông qua các đầu mối trung gian. Theo kết luận điều tra, tổng số tiền hai bị can phải chịu trách nhiệm trong nhóm nhận hối lộ là hơn 107 tỷ đồng. Trong đó, Nguyễn Thanh Phong bị xác định phải nộp lại 43,5 tỷ đồng, còn Trần Việt Nga phải nộp lại 8 tỷ đồng là số tiền đã được chia, hưởng lợi.
Theo cơ quan điều tra, chính cơ chế chia tiền có tổ chức này đã biến Cục An toàn thực phẩm thành “trạm trung chuyển” tiền hối lộ, làm méo mó nghiêm trọng hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Doanh nghiệp mua chuộc “cánh cửa an toàn thực phẩm”
Liên quan tới vụ án này, có 21 bị can bị truy tố tội “Đưa hối lộ”, trong đó có nhiều lãnh đạo doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dược phẩm, thực phẩm chức năng, như: Lại Thị Thu Anh, Giám đốc Công ty TNHH Great Health Việt Nam; Phạm Đức Thuận, Chủ tịch HĐQT và Nguyễn Quang Hưng, nguyên Tổng giám đốc Công ty cổ phần Dược phẩm Novaco;
Phạm Thị Loan, Giám đốc Công ty cổ phần Dược phẩm quốc tế Canada Việt Nam; Trần Quang Hải, Giám đốc, đại diện pháp luật Công ty cổ phần Dịch vụ thực phẩm quốc tế Fosi; Nguyễn Thị Huyền, Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ thương mại Minh An và Công ty TNHH Nhật Nam Group; Nguyễn Thị Tình, Giám đốc Công ty TNHH Thanh Thế Việt Nam; Mai Văn Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Thực phẩm Quốc tế Đại An; Nguyễn Việt Anh, nguyên Giám đốc Công ty TNHH Balactan Việt Nam…
Theo kết luận điều tra, hành vi đưa hối lộ trong vụ án không mang tính bị động hay bột phát, mà được doanh nghiệp và các cá nhân làm dịch vụ chủ động coi như một “chi phí bắt buộc” trong quá trình xin cấp phép, quảng cáo và thẩm định điều kiện sản xuất thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Điển hình cho cách thức mua chuộc có tổ chức là trường hợp của Nguyễn Năng Mạnh, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần MediaUSA (sở hữu nhà máy MediPhar). Trong quá trình xin cấp Giấy chứng nhận GMP và tổ chức thẩm định, thẩm định lại, hậu kiểm hai nhà máy, Mạnh đã chủ động móc nối với cán bộ Cục An toàn thực phẩm để “đặt lịch”, “đẩy nhanh tiến độ” và bỏ qua các tồn tại.
Tiền được chia theo cấp bậc, từ lãnh đạo Cục đến các thành viên đoàn, với số tiền lên tới hàng trăm triệu đồng mỗi lần. Trong các đợt thẩm định lại và hậu kiểm, cách thức này tiếp tục lặp lại; dù biên bản vẫn ghi nhận tồn tại, việc đánh giá chủ yếu dựa trên hồ sơ, bỏ qua kiểm tra thực tế để đề xuất cấp Giấy chứng nhận GMP.
Nguyễn Năng Mạnh được xác định đã chi tổng cộng gần 3,5 tỷ đồng, song do bị khởi tố trong vụ án “Sản xuất hàng giả là thực phẩm”, nên hành vi đưa hối lộ này sẽ được xử lý trong vụ án trên.
Huệ Nguyễn
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/vu-an-xay-ra-tai-cuc-an-toan-thuc-pham-bo-y-te-thu-doan-gay-kho-ep-chi-tien-d464405.html