Vụ công ty của diễn viên hài Thu Trang bị kiện: VKS đề nghị bác kháng cáo

Vụ công ty của diễn viên hài Thu Trang bị kiện: VKS đề nghị bác kháng cáo
3 ngày trướcBài gốc
Ngày 26-3, TAND TP.HCM mở phiên xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư. Nguyên đơn là Công ty Bảo Trinh, bị đơn là Công ty TNHH Giải trí Tổng hợp Thu Trang (công ty của diễn viên hài Thu Trang). HĐXX nghị án kéo dài và sẽ tuyên án vào ngày mai (27-3).
Hình ảnh trong MV nhạc phim Dân chơi không sợ con rơi. Ảnh: PHP
Xử sơ thẩm hồi tháng 10-2024, TAND TP Thủ Đức tuyên buộc công ty của diễn viên hài Thu Trang hoàn trả cho đối tác hơn 1,3 tỉ đồng tiền vốn góp và lợi nhuận từ bộ phim "Dân chơi không sợ con rơi". Sau đó, phía nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn trình bày giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Cả hai bên tranh cãi kịch liệt liên quan các tình tiết về số tiền phân chia trong hợp đồng.
Phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đại diện VKSND TP.HCM cho rằng tòa án cấp sơ thẩm buộc công ty của diễn viên hài Thu Trang hoàn trả cho đối tác hơn 1,3 tỉ đồng tiền vốn góp và lợi nhuận từ bộ phim là có căn cứ, VKS đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm, bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Theo bản án sơ thẩm, ngày 16-11-2020, Công ty Bảo Trinh giao kết hợp đồng hợp tác sản xuất và kinh doanh phim với Công ty Thu Trang để góp vốn đầu tư bộ phim điện ảnh Cha tôi là dân chơi (sau được đổi tên thành Dân chơi không sợ con rơi).
Kinh phí dự kiến là 23 tỉ đồng, công ty Bảo Trinh góp 2,3 tỉ đồng (tương đương 10% kinh phí). Trường hợp doanh thu khai thác bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư, lợi nhuận cho Công ty Bảo Trinh là 10% doanh thu.
Ngày 24-7-2022, Công ty Thu Trang phát hành bảng kế toán hợp đồng hợp tác kinh doanh phim kèm theo bảng tổng kết doanh thu là hơn 24,9 tỉ đồng. Tổng chi phí cho việc sản xuất bộ phim là hơn 27,2 tỉ đồng. Việc sản xuất bộ phim bị lỗ hơn 2,28 tỉ đồng.
Theo phía Công ty Bảo Trinh, theo hợp đồng, công ty này phải được nhận lại phần vốn góp sau trừ khi 10% khoản lỗ hơn 2 tỉ đồng (2,3 tỉ đồng tiền vốn góp trừ 10% của khoản lỗ 2,28 tỉ đồng) và lợi nhuận bằng 10% của doanh thu (10% x 24,9 tỉ đồng). Tổng cộng hơn 4,5 tỉ đồng.
Công ty Bảo Trinh chỉ nhận được 1,15 tỉ đồng và chưa nhận được hơn 3,4 tỉ đồng tiền phần vốn góp còn lại và doanh thu theo thỏa thuận từ phía Công ty Thu Trang.
Về phía Công ty Thu Trang, công ty này xác nhận về tỷ lệ góp vốn ban đầu và lợi nhuận mà nguyên đơn được hưởng là 10% lợi nhuận phát hành (doanh thu sau khi trừ đi chi phí).
Tuy nhiên, bị đơn cho rằng phía nguyên đơn đã viện dẫn mục: “Trong trường hợp doanh thu khai thác bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư của dự án thì phần chia lợi nhuận cho Công ty Bảo Trinh 10% doanh thu" là không đúng với bản chất của hợp đồng.
Vì để nhà sản xuất và bên đầu tư chia sẻ rủi ro, trong trường hợp xấu nhất doanh thu khai thác của bộ phim thấp hơn tổng vốn đầu tư là 23 tỉ đồng thì phần chia lợi nhuận cho Công ty Bảo Trinh là 10% doanh thu mà không được hoàn vốn.
Công ty Thu Trang đề xuất diễn giải như sau: Doanh thu thuần hơn 24,9 tỉ đồng trừ đi chi phí sản xuất là 23 tỉ đồng được lợi nhuận là hơn 1,82 tỉ đồng. Công ty Bảo Trinh được nhận 10% của 1,82 tỉ đồng là 182 triệu đồng.
Phía bị đơn đồng ý hoàn trả cho Công ty Bảo Trinh 2,3 tỉ đồng vốn góp cùng 182 triệu đồng tiền lợi nhuận. Trừ đi số tiền 1,15 tỉ đồng mà Công ty Thu Trang đã trả trước đó, số tiền còn lại phải trả là hơn 1,3 tỉ đồng.
Lập luận của cấp sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm, TAND TP Thủ Đức tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty Thu Trang hoàn trả cho Công ty Bảo Trinh số tiền hơn 1,3 tỉ đồng bao gồm 1,15 tỉ đồng phần vốn góp còn lại và 10% lợi nhuận phát sinh (198 triệu đồng).
HĐXX đã yêu cầu Công ty Lotte cung cấp chứng cứ nhưng không nhận được phản hồi. Phía nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý sử dụng số liệu giữa Công ty Thu Trang với Lotte làm căn cứ giải quyết vụ án.
Theo đó, tổng doanh thu các đợt phát hành phim là hơn 52 tỉ đồng. Sau khi trừ đi phí thuê rạp, phát hành phim, doanh thu thuần còn 24,9 tỉ đồng.
Lợi nhuận phát hành mà Công ty Bảo Trinh được hưởng được tính bằng doanh thu thuần của bộ phim 24,9 tỉ đồng trừ đi phí sản xuất 23 tỉ đồng là 1,9 tỉ đồng. Như vậy, 10% lợi nhuận mà Công ty Bảo Trinh được nhận tương đương 198 triệu đồng.
Đối với yêu cầu của Công ty Bảo Trinh cho rằng lợi nhuận của bộ phim không có và yêu cầu nhận lại phần vốn góp cùng với 10% doanh thu là không phù hợp với quy định Điều 504 BLDS và không có căn cứ chấp nhận. Theo đó, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi, cùng phải chịu trách nhiệm.
TRẦN LINH
Nguồn PLO : https://plo.vn/vu-cong-ty-cua-dien-vien-hai-thu-trang-bi-kien-vks-de-nghi-bac-khang-cao-post841022.html