Vượt qua hiểm nghèo
Nhà ngoại giao kỳ cựu kể lại, sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ cùng lúc phải đối mặt với bốn lực lượng vũ trang nước ngoài. Trong tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy chỉ có hơn 30 chiến sĩ Tuyên truyền Giải phóng quân, trong khi lực lượng dân quân, tự vệ vẫn còn non yếu. Giữa lúc “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn ngoại giao làm “mũi nhọn”, dùng vũ khí mềm để hóa giải thế hiểm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nguyên thủ quốc gia mà còn trở thành vị tư lệnh đầu tiên của ngành Ngoại giao Việt Nam – một quyết định mang tính chiến lược đầy khôn ngoan và táo bạo. Chủ trương “hòa để tiến” của Bác thể hiện rõ qua Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, nhằm tạm thời loại bỏ ảnh hưởng của quân Tưởng Giới Thạch, tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng.
Theo ông Nguyễn Dy Niên, nghệ thuật ngoại giao đầy khéo léo và linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp đất nước vượt qua thời kỳ hiểm nghèo nhất, mở đường cho những bước tiến xa hơn sau này.
Những năm đầu, ngoại giao Việt Nam hiện diện rất khiêm tốn: Chỉ có văn phòng liên lạc ở Yangon (Myanmar) từ năm 1947 và một đại diện ở đài phát thanh tại Tây Bengal (Ấn Độ). Bên cạnh đó, lực lượng kiều bào yêu nước ở Thái Lan và Pháp có nhiều hoạt động thiết thực để đóng góp cho cách mạng trong nước.
Đến chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính thức Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam có hai đại sứ quán đầu tiên tại Bắc Kinh và Mátxcơva, đánh dấu bước khởi đầu khiêm nhường nhưng đầy ý nghĩa của ngoại giao Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ đó, những cánh cửa ngoại giao dần rộng mở. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève, lần đầu tiên đưa ngoại giao Việt Nam tới chính trường châu Âu. Dưới sự dẫn dắt của Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng, đoàn đàm phán tuy non trẻ nhưng đã thể hiện bản lĩnh, lĩnh hội tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách sắc sảo và cương quyết.
Ông Nguyễn Dy Niên kể lại, ông tham gia công tác ngoại giao từ giai đoạn thực thi Hiệp định Genève – một cuộc đấu tranh đầy thử thách. Khi ấy, Việt Nam chỉ có quan hệ với khối xã hội chủ nghĩa và một số quốc gia dân tộc chủ nghĩa như Ấn Độ, Indonesia, Myanmar. “Chúng ta vẫn quyết đấu tranh và cuối cùng thế giới đã lắng nghe chúng ta. Các nước phải công nhận chính nghĩa của Việt Nam”, ông Niên, nói.
Bước sang những năm 60, khi chiến tranh leo thang tại miền Nam, đấu tranh ngoại giao trở nên khốc liệt không kém mặt trận quân sự. Bác Hồ chỉ rõ: Muốn thắng ngoại giao, trước hết phải thắng trên chiến trường. Cuộc đàm phán kéo dài gần 5 năm tại Hội nghị Paris (1968-1973) là minh chứng hùng hồn cho sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận: Quân sự - chính trị - ngoại giao.
Hiệp định Paris với 9 chương và 23 điều khoản, đặc biệt là 7 điều đầu tiên khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của Việt Nam. “Chỉ vài điều khoản ấy thôi mà ta đã mất 5 năm đàm phán, 20 năm chiến đấu và hơn 2 triệu người Việt Nam đã đổ máu. Khó có thể diễn tả để nói hết tầm quan trọng của nó”, ông Niên xúc động chia sẻ.
Theo Hiệp định, đúng ngày 29/3/1973, lá cờ cuối cùng của quân đội Mỹ phải hạ xuống ở Sài Gòn. Đây là thắng lợi vô cùng to lớn của ngoại giao Việt Nam, góp phần quyết định tạo nên đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc giai đoạn đấu tranh gian khổ khó khăn nhất của nhân dân ta.
Tuy nhiên, chưa đầy 2 năm sau, Việt Nam phải đối mặt với một cuộc chiến mới. Trước họa diệt chủng của Khmer Đỏ, Việt Nam đã thực hiện một hành động hiếm có trong lịch sử hiện đại: Giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Dù hành động chính nghĩa, Việt Nam bị nhiều thế lực thù địch xuyên tạc, bao vây về ngoại giao.
Tại Liên Hợp Quốc, khi phải nghe những lời chỉ trích gay gắt, ông Nguyễn Dy Niên - theo ủy quyền của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch - chủ động viết bài phản biện. “Bài phát biểu được bà Tôn Nữ Thị Ninh đọc trước toàn thể Đại hội đồng bằng giọng tiếng Anh chuẩn, và cả hội trường im phăng phắc lắng nghe”, ông Niên nhớ lại.
Ông khẳng định, Việt Nam đã kiên trì, chân thành và dũng cảm. Cuối cùng, thế giới dần hiểu sự thật và tôn trọng chính nghĩa của Việt Nam.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres tháng 9/2024ảnh: TTXVN
Đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với 37 nước, bao gồm toàn bộ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Đảng ta cũng có quan hệ với 259 chính đảng tại 119 quốc gia.
Sau giai đoạn khó khăn ấy, Việt Nam bắt đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với Mỹ, gia nhập ASEAN và mở rộng quan hệ với cộng đồng quốc tế. Ngoại giao bước vào một kỷ nguyên mới – từ thế bị động tiếp nhận sang vị thế chủ động đóng góp.
Ông Niên cho biết, những người làm ngoại giao ngày ấy rất thiếu thốn, đến mức phải mượn quần áo của Bộ Tài chính. “Gian khổ như vậy nhưng chúng tôi đi rất đàng hoàng, vẫn đấu tranh kiên quyết và tạo nên thành quả như vậy”, ông chia sẻ.
Theo nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh, đặc điểm nổi bật của ngoại giao Việt Nam chính là chủ động và linh hoạt, được vận dụng kịp thời và hiệu quả trong những giai đoạn phức tạp và thử thách như thời kỳ Chiến tranh Lạnh đến vấn đề Khmer Đỏ, từ cấm vận của Mỹ đến gia nhập WTO.
Phương thức đó cũng giúp Việt Nam từng bước chinh phục lòng tin của ASEAN, tổ chức này đang đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực. Bà dẫn đánh giá của nhà nghiên cứu Hal Hill từ Đại học Quốc gia Singapore: “Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công tiêu biểu sau 30 năm gia nhập ASEAN.”
Một minh chứng cho uy tín quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam là hai lần đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; tham gia tích cực vào lực lượng gìn giữ hòa bình tại Nam Sudan - điều chưa từng có trong lịch sử ngoại giao Việt Nam trước đây.
Các thành viên Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 1 của Việt Nam tại Bentiu, Nam Sudan Ảnh: QĐND
Dám khai phá
Đại sứ Đoàn Xuân Hưng nhấn mạnh, sở dĩ ngoại giao Việt Nam gặt hái nhiều thành công là tinh thần dám đề xuất, dám khai phá, từ những ý tưởng ban đầu như ngoại giao kinh tế - được đưa ra từ những năm 70 - 80 của thế kỷ trước nhưng không được ủng hộ lắm, nay đã trở thành trọng tâm chiến lược quốc gia. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ họp định kỳ 3 tháng một lần với các cơ quan đại diện để thúc đẩy mạnh mẽ ngoại giao phục vụ phát triển.
“Từ thân phận một nước bị xem là ‘nhược tiểu”, ngày nay, trong con mắt bạn bè quốc tế, Việt Nam là một quốc gia tầm trung có vai trò, vị thế ngày càng tăng trong ASEAN và ở khu vực, có đóng góp ngày càng chủ động, tích cực vào việc tham gia giải quyết các công việc chung của cộng đồng quốc tế”. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn
Ông Hưng cho rằng ngoại giao hiện nay phải tận dụng tất cả trụ cột gồm ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa đến công tác người Việt ở nước ngoài, để thực hiện những nhiệm vụ lớn, tập trung vào những lĩnh vực như khoa học công nghệ, tranh thủ tiềm lực ngoài nước hỗ trợ trong nước, tạo ra những cơ hội mới.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Đình Quý cho rằng ngoại giao Việt Nam 80 qua để lại nhiều bài học về xử lý quan hệ nước lớn. Theo ông, đối ngoại phải chuyển mạnh sang ngoại giao phát triển, nhưng duy trì hòa bình an ninh vẫn là nhu cầu số một. Ngoại giao đóng góp cho phát triển thông qua đảm bảo an ninh, giữ gìn môi trường thuận lợi.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho rằng, đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam với nền tảng là tư tưởng Hồ Chí Minh, là “tuyệt kỹ của ngoại giao nước nhỏ và vừa”.
Thu Loan