Ngày 25-8, TAND Khu vực 1 - TP.HCM mở phiên xét xử sơ thẩm vợ chồng chủ cơ sở Tuấn Tâm chứa mại dâm. HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh Trang và bị cáo Đinh Minh Tâm (chồng bị cáo Trang) cùng mức án 7 năm tù về tội chứa mại dâm, theo khoản 2 Điều 327 BLHS, phạt bổ sung mỗi bị cáo 10 triệu đồng.
Cáo buộc chứa mại dâm trong tiệm gội đầu
Theo cáo trạng, Công ty TNHH Dịch vụ cắt tóc gội đầu Tuấn Tâm hoạt động dịch vụ cắt tóc, gội đầu do bị cáo Tâm làm giám đốc đứng tên giấy phép kinh doanh; bị cáo Trang quản lý điều hành.
Theo cáo buộc, đầu tháng 1-2024, Trang và Tâm đã thống nhất cho nhân viên nữ bán dâm cho khách. Khoảng 16 giờ 20 ngày 1-10-2024, 4 khách nam đến mua bán dâm với 4 nhân viên nữ. Đến 16 giờ 35 cùng ngày, lực lượng chức năng kiểm tra cơ sở và bắt quả tang hành vi 4 nhân viên nữ đang bán dâm cho khách.
HĐXX tuyên án vợ chồng chủ cơ sở Tuấn Tâm chứa mại dâm. Ảnh: SONG MAI
Quá trình điều tra, hai bị cáo Trang và Tâm còn thừa nhận trước ngày 1-10-2024, NTHN (nhân viên) đã mua bán dâm tại cơ sở và đã đưa 300.000 đồng (tiền hưởng lợi) cho Tâm.
Tại phần xét hỏi, bị cáo Trang thừa nhận hành vi phạm tội nhưng khai chỉ thực hiện một lần. Trong khi đó, bị cáo Tâm không thừa nhận cáo buộc, cho rằng số tiền 300.000 đồng do nhân viên N đưa là khoản trừ vào tiền cơm, bị cáo không biết đây là tiền N bán dâm.
Theo yêu cầu của luật sư (LS), HĐXX đã cho trình chiếu lại video ghi âm, ghi hình đối chất giữa bị cáo Tâm và nhân viên N tại CQĐT.
LS cho rằng, nội dung câu hỏi mà bị cáo ghi hình không giống như nội dung trong biên bản.
Tuy nhiên, theo VKS, quá trình ghi âm, ghi hình là phần bị cáo trực tiếp trình bày, khi thể hiện bằng biên bản sẽ có khác biệt về câu chữ nhưng không làm thay đổi bản chất, nội dung vụ việc.
Trong phần luận tội, Đại diện VKSND Khu vực 1 - TP.HCM đã đề nghị bị cáo Nguyễn Thanh Trang và bị cáo Đinh Minh Tâm cùng mức án 5 năm 6 tháng - 6 năm tù về tội chứa mại dâm.
Tranh luận gay gắt giữa VKS và luật sư
Bào chữa cho hai bị cáo, LS cho rằng, hồ sơ vụ án có nhiều sai sót về mặt tố tụng. Trong đó, bị cáo Trang không biết chữ nên quá trình điều tra cần có người chứng kiến. Tuy nhiên, người chứng kiến không có thông tin về nhân thân, không ký tên đầy đủ... Một số biên bản ghi lời khai, bản tự khai của hai bị cáo giống nội dung, từng câu, chữ, dấu chấm, phẩy; hầu hết được đánh máy, in ra...
LS cho rằng, bị cáo Trang bị truy tố khoản 2 Điều 327 BLHS với khung hình phạt 5-10 năm tù là quá nặng, còn bị cáo Tâm bị oan.
Bị cáo Trang chỉ nhận tiền từ một nhân viên bán dâm vào ngày 1-10-2024. Còn 3 nhân viên khác chưa thông báo, chưa giao tiền trước cho bị cáo. Do đó, bị cáo chỉ chịu trách nhiệm về việc chứa mại dâm đối với một người theo khoản 1 Điều 327 BLHS.
Đối với bị cáo Tâm, chỉ đứng tên công ty, không tham gia điều hành và thỉnh thoảng ghé trông nom khi bị cáo Trang có việc riêng. Lời khai của các nhân viên đều xác nhận Trang là người quản lý điều hành các hoạt động, Tâm không liên quan. Do đó, có căn cứ khẳng định bị cáo Tâm không liên quan đến hành vi chứa mại dâm.
Đối đáp, đại diện VKSND Khu vực 1 - TP.HCM cho rằng, quá trình điều tra, CQĐT đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 67 BLTTHS về người chứng kiến; việc lấy lời khai hoàn toàn khách quan, trung thực và được ghi âm, ghi hình và lưu hồ sơ vụ án đúng quy định. Tất cả các biên bản hỏi cung đều thể hiện người chứng kiến đã đọc lại để bị cáo Trang nghe, lăn tay xác nhận.
Về việc các biên bản ghi lời khai, bản tự khai có nội dung giống nhau, VKS cho rằng, các lần hỏi cung nội dung các bị cáo khai không có gì thay đổi và đều được các bị cáo đọc, ký tên từng trang.
VKS xét thấy, hai bị cáo đều thống nhất đưa ra chủ trương chứa mại dâm nên phải chịu trách nhiệm hoàn toàn cho 4 lần bán dâm; các nhân viên xác nhận đã nhiều lần bán dâm tại cơ sở, nên không có căn cứ cho rằng bị cáo Trang phạm tội một lần.
LS cho rằng bị cáo Tâm không phạm tội và số tiền 300.000 đồng bị cáo Tâm nhận từ nhân viên không phải là tiền từ việc bán dâm, VKS xét thấy, tại các biên bản hỏi cung, bị cáo Tâm đều thừa nhận thống nhất đưa ra chủ trương. Lời khai của nhân viên tạp vụ thể hiện, đã thấy bị cáo Tâm nhận 300.000 đồng tiền bán dâm của nhân viên N.
VKS cũng đề nghị HĐXX tịch thu sung quỹ số tiền 300.000 đồng. Vì số tiền này đã được đối chất làm rõ là tiền nhân viên N bán dâm đưa cho Tâm.
Từ những lập luận trên, đại diện VKSND Khu vực 1 - TP.HCM giữ nguyên quan điểm truy tố đối với hai bị cáo.
Nhận định của HĐXX
Tại phần tuyên án, HĐXX cho rằng, các quan điểm bào chữa của LS là không có căn cứ. Bởi, bị cáo Trang là người không biết chữ, trong biên bản đều có người khác tham gia với tư cách người chứng kiến và biên bản được đọc lại cho bị cáo nghe, kí tên, điểm chỉ... Quá trình hỏi cung bị cáo đều được ghi âm, ghi hình. Khi cần thiết CQĐT còn đối chất bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ vụ án.
Mặt khác, bị cáo và người bào chữa không cung cấp tài liệu bị mớm cung, dụ cung, do đó HĐXX có đủ cơ sở khẳng định hành vi phạm tội của các bị cáo là có thật, khách quan.
Đối với số tiền 300.000 đồng nhân viên N đưa cho Tâm, HĐXX đã công bố đoạn ghi âm, ghi hình của bị cáo và đối chất giữa bị cáo và N về số tiền này. HĐXX xét thấy, lời khai hoàn toàn phù hợp với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; biên bản đối chất, hồ sơ vụ án...
Từ những phân tích trên, HĐXX có đủ căn cứ xác định, bị cáo Trang và Tâm đã có hành vi chứa mại dâm, thuộc trường hợp từ 4 người trở lên. Hành vi của các bị cáo là trái pháp luật, xuất phát động cơ vụ lợi muốn có tiền tiêu xài; xâm phạm trật tự xã hội, nếp sống văn minh...
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Trang là chủ mưu, khởi xướng và đưa ra chủ trương. Bị cáo Tâm giúp sức, trực tiếp thu tiền bán dâm của nhân viên. Cả hai bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng vai trò của mình.
HĐXX xem xét, bị cáo Trang thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu. Riêng Tâm quanh co chối tội, lời khai bất nhất, mâu thuẫn nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ...
SONG MAI