Ngày 9-10, VKSND khu vực 7 - TP.HCM đã ban hành kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là một ngân hàng và bị đơn là vợ chồng ông THS được TAND khu vực 7 - TP.HCM xét xử sơ thẩm ngày 30-9-2025.
VKSND khu vực 7 - TP.HCM đề nghị TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Vay ngân hàng mua biệt thự
Theo nội dung vụ án, ngày 25-11-2020, ngân hàng và vợ chồng ông S ký hợp đồng cho vay 3,6 tỉ đồng. Mục đích vay: thanh toán tiền đặt cọc theo Văn bản thỏa để được mua biệt thự song lập tại một dự án ở TP Phan Thiết (cũ) ký giữa vợ chồng ông S và công ty N.
Thời hạn vay: 36 tháng tính từ ngày tiếp theo của ngày bên ngân hàng giải ngân vốn vay đầu tiên. Tài sản thế chấp để bảo đảm cho số tiền vay tại hợp đồng tín dụng nêu trên là tất cả các quyền tài sản thuộc quyền sở hữu/sử dụng của vợ chồng ông S phát sinh từ văn bản thỏa thuận giữa ông S với Công ty N.
Quá trình sử dụng vốn vay, vợ chồng ông S thanh toán nợ cho ngân hàng đến tháng 12-2022. Sau đó, không tiếp tục thanh toán nợ vay như Hợp đồng cho vay đã ký. Ngày 16-1-2023, tất cả các khoản vay của vợ chồng ông S tại ngân hàng đã chuyển nợ quá hạn. Dư nợ tạm tính đến ngày 30-9-2025 là hơn 5,3 tỉ đồng (nợ gốc 3,6 tỉ đồng và lãi quá hạn là 1,6 tỉ đồng).
Ngân hàng đã nhiều lần mời vợ chồng ông S lên làm việc, tạo điều kiện về thời gian và đề nghị thanh toán nợ vay nhưng vợ chồng ông S không trả.
Do đó, phía ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông S để yêu cầu thanh toán các khoản nợ.
Phía bị đơn trình bày, thống nhất với phần trình bày của ngân hàng về việc các bên ký kết hợp đồng tín dụng và khoản tiền ông bà nợ ngân hàng. Bị đơn có nguyện vọng mong muốn ngân hàng xem xét và cắt giảm lãi cũng như lãi quá hạn để ông bà có thời gian trả nợ cho ngân hàng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty N vắng mặt tại phiên tòa.
Tòa sơ thẩm đã tuyên hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn và bị đơn đều vô hiệu, bác yêu cầu khởi kiện của ngân hàng. Buộc Công ty N phải trả lại cho ngân hàng 3,65 tỉ đồng nợ gốc, sau khi đã cấn trừ số tiền 900 triệu đồng, số tiền phải trả là hơn 2,7 tỉ đồng.
HĐXX sơ thẩm tuyên án vụ kiện giữa ngân hàng và vợ chồng ông THS. Ảnh: TP
Kháng nghị cho rằng cấp sơ thẩm đã giải quyết quá phạm vi yêu cầu khởi kiện
Theo kháng nghị của VKSND khu vực 7 - TP.HCM, về tố tụng, TAND khu vực 7 - TP.HCM đã giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.
Cụ thể: Nguyên đơn - ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc, nợ lãi và yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm. Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Tại phiên tòa các đương sự không thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Nhưng bản án tuyên bố hợp đồng cho vay vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.
Về nội dung: Xét văn bản thỏa thuận giữa ông S và Công ty N được hai bên ký kết hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện. Công ty N là đơn vị tư vấn môi giới cho phía ông S lựa chọn tài sản thuộc dự án của Chủ đầu tư và có nguyện vọng được mua tài sản khi có đủ điều kiện mở bán theo quy định.
Quá trình thực hiện Văn bản thỏa thuận, Công ty N không vi phạm cam kết; phía vợ chồng ông S thừa nhận không có ý kiến phản đối hay khiếu nại gì.
Căn cứ Hợp đồng môi giới bất động sản được ký giữa chủ đầu tư và Công ty N, thì Công ty N không phải là chủ đầu tư dự án mà là công ty tư vấn môi giới độc quyền, không có chức năng kinh doanh giao dịch ký hợp đồng mua bán đối với các sản phẩm bất động sản thuộc Dự án.
Theo Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản: "Môi giới bất động sản là việc làm trung gian cho các bên trong mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, mua lại bất động sản". Căn cứ thỏa thuận với chủ đầu tư, Công ty N ký kết văn bản thỏa thuận tư vấn, môi giới với vợ chồng ông S là phù hợp với quy định của pháp luật. Công ty N không ký kết hợp đồng mua bán, kinh doanh bất động sản nên không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Mặt khác, tại khoản 3.1 Điều 3 của Văn bản thỏa thuận thể hiện rõ: Bên ông S đồng ý đặt cọc cho bên Công ty N để đảm bảo cho việc ông S thực hiện các cam kết của ông S tại Văn bản thỏa thuận này và để chứng minh năng lực tài chính của ông S, chứ không phải là mục đích đảm bảo để phía Công ty N thực hiện các cam kết của Công ty N trong Văn bản thỏa thuận này. Điều này phù hợp với Điều 328 BLDS.
Do đó, VKS cho rằng việc HĐXX sơ thẩm cho rằng văn bản thỏa thuận ngày 5-11-2020 giữa Công ty N và ông S vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật dẫn đến Hợp đồng cho vay và Hợp đồng thế chấp cùng lập ngày 25-11-2020 là không đúng.
SONG MAI