Diện tích quế của gia đình ông Triệu Hữu Quan, ở phường Bắc Kạn, sắp được khai thác.
Giới thiệu với chúng tôi đồi cây mỡ đã trồng hơn 10 năm và đang bước vào thời kỳ cho khai thác, bà Hoàng Thị Yến, ở xã Nghĩa Tá, phấn khởi chia sẻ: Khi mới bắt tay vào trồng rừng, do thiếu kinh nghiệm nên việc chăm sóc gặp rất nhiều khó khăn. Không nản lòng, tôi vừa làm vừa học hỏi kinh nghiệm từ những hộ trồng rừng đi trước.
Đến năm thứ ba, khi cây bắt đầu khép tán, công việc chăm sóc trở nên đơn giản hơn. Nhờ đó, gia đình từng bước mở rộng diện tích, trồng gối nhiều lứa cây, và đến nay đã có hơn 10ha rừng mỡ. Với giá thị trường hiện nay, mỗi héc-ta gỗ mỡ mang lại thu nhập gần 100 triệu đồng, là nguồn thu đáng kể đối với mặt bằng các họ ở nông dân miền núi.
Không chỉ gia đình bà Yến, nhiều hộ dân khác ở Thái Nguyên cũng đã bền bỉ gắn bó với nghề rừng và vươn lên làm giàu nhờ phát huy hiệu quả kinh tế đồi rừng. Hiểu rõ ý nghĩa của câu nói “Rừng vàng, biển bạc”, ngay khi địa phương phát động phong trào trồng rừng, ông Trương Quốc Bùi ở xã Yên Phong đã mạnh dạn nhận 20ha đất rừng để trồng cây mỡ.
Sau hơn 10 năm cần cù chăm sóc, đến nay gia đình ông đã thu được “trái ngọt” từ chính khu rừng của mình. Những cánh rừng mỡ xanh tốt, thẳng tắp sau khai thác đã mang lại giá trị kinh tế lên tới hàng tỷ đồng, giúp gia đình ổn định cuộc sống và làm giàu. Ông Trương Quốc Bùi trở thành một trong những điển hình tiêu biểu trong phát triển kinh tế đồi rừng, tạo động lực để người dân địa phương thêm gắn bó và vươn lên từ nghề rừng.
Nếu như trước đây gỗ mỡ là cây trồng chủ lực mang lại thu nhập lớn, thì nay, cùng với sự thay đổi nhu cầu thị trường, hướng đi của người dân cũng ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn. Từ định hướng của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, bà con bắt đầu chuyển sang trồng các giống cây lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao hơn, nhằm phát huy tối đa lợi thế từ rừng.
Đồi quế rộng hơn 2ha của gia đình ông Triệu Hữu Quan ở phường Bắc Kạn, đã được trồng hơn 5 năm và đang chuẩn bị bước vào kỳ khai thác. Ông Triệu Hữu Quan chia sẻ: Khi thị trường bắt đầu ưa chuộng cây quế, tôi đã mạnh dạn chuyển sang trồng thử và nhận thấy cây phát triển rất tốt. Loài cây này có thể thu mua toàn bộ từ thân, vỏ đến lá nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với những diện tích mới trồng, tôi còn xen canh thêm cây nghệ để lấy ngắn nuôi dài, bước đầu cho hiệu quả tích cực.
Tại các xã khu vực phía Bắc tỉnh Thái Nguyên, kinh tế nông - lâm nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Toàn tỉnh hiện có hơn 100.000ha rừng trồng, trong đó khoảng 50.000ha đã đến tuổi khai thác. Các loài cây chủ lực gồm keo, mỡ, quế, hồi, bạch đàn và bồ đề.
Mỗi năm, diện tích trồng rừng mới đạt trên 5.000ha, vượt so với kế hoạch đề ra, với sản lượng khai thác gỗ từ rừng trồng đạt hơn 370.000m3. Để giúp người dân nâng cao giá trị kinh tế từ rừng, những năm qua, hệ thống đường lâm nghiệp đã được chú trọng đầu tư, tạo bước đột phá cho phát triển kinh tế rừng.
Việc mở rộng mạng lưới đường lâm nghiệp đã tạo đột phá cho phát triển kinh tế rừng, giúp giảm chi phí sản xuất, khai thác, nâng cao giá trị rừng trồng và khuyến khích phong trào trồng rừng, qua đó cải thiện đời sống người dân. Nhờ đó, kinh tế rừng trở thành động lực quan trọng trong giảm nghèo ở các xã phía Bắc. Giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo đa chiều tại khu vực này giảm bình quân 2,7%/năm, riêng hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 3%/năm.
Nhiều bản làng miền núi đang đổi thay diện mạo, đời sống người dân ngày càng khởi sắc nhờ phát triển kinh tế rừng.
Ông Nông Đình Thắng, Chủ tịch UBND xã Nghĩa Tá, cho biết: Địa phương luôn xác định kinh tế rừng là ngành kinh tế chủ lực. Hiện nay, bên cạnh việc đẩy mạnh trồng rừng, xã đang hướng dẫn người dân đăng ký và xây dựng rừng trồng đạt chứng chỉ FSC (tiêu chuẩn quốc tế về quản lý rừng bền vững) nhằm đáp ứng yêu cầu gỗ xuất khẩu và tạo điều kiện để người dân làm giàu từ rừng.
Có thể khẳng định, kinh tế rừng đã trở thành hướng đi quan trọng giúp người dân thoát nghèo, làm giàu bền vững trên chính quê hương mình. Những cánh rừng được chăm sóc, bảo vệ đúng cách góp phần duy trì hệ sinh thái, bảo vệ môi trường và giữ gìn “lá phổi xanh” cho cuộc sống.
Tiềm năng từ khai thác tín chỉ các-bon cũng đang mở ra những cơ hội mới, nâng cao giá trị kinh tế của rừng và thúc đẩy phát triển theo hướng xanh, bền vững. Khi mỗi người dân coi việc giữ rừng như gìn giữ cuộc sống của chính mình, rừng sẽ đáp lại bằng sự no ấm, bình yên và tương lai tươi sáng cho từng bản làng.
Thu Nhuận