Theo thông tin từ Cục thống kê (Bộ Tài chính), trong 6 tháng đầu năm, ngành dệt may Việt Nam ghi nhận kim ngạch xuất khẩu đạt gần 22 tỷ USD, tăng 2,3 tỷ USD (tương ứng 10%) so cùng kỳ năm trước. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 8,77 tỷ USD, tăng 17,1%; EU 2,36 tỷ USD, tăng 14,8%; Nhật Bản 2,24 tỷ USD, tăng 12,4%…
Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) nhận định, đà tăng trưởng này phản ánh sự phục hồi dần của thị trường, cùng với những nỗ lực không ngừng của cộng đồng doanh nghiệp trong việc duy trì sản xuất, cải tiến công nghệ và chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu mới từ chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngành may vượt khó, báo lãi lớn
Công ty cổ phần May Sông Hồng (HoSE: MSH) cho biết doanh thu thuần quý II đạt gần 1.467 tỷ đồng, tăng 10%. Theo lý giải từ doanh nghiệp, mức tăng đến từ việc ký được nhiều đơn hàng hơn.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, MSH đạt 2.503 tỷ đồng doanh thu và 242 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, lần lượt tăng 19% và 74% so với cùng kỳ. Dù doanh thu chưa trở lại đỉnh bán niên trên 2.700 tỷ đồng từng thiết lập năm 2022, song lợi nhuận nửa đầu năm đã lập kỷ lục mới, và lần đầu trở lại mốc trên 200 tỷ đồng sau các giai đoạn 2019 và 2021.
Trong khi đó, Tổng Công ty Cổ phần Dệt may Hòa Thọ (HoSE: HTG) ghi nhận doanh thu thuần trong quý II đạt gần 1.310 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá vốn hàng bán có tốc độ tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu trong kỳ, nên biên lãi gộp của công ty tăng từ mức 13,8% lên 16,5%. Sau khi trừ các chi phí, Dệt may Hòa Thọ báo lãi sau thuế đạt hơn 129 tỷ đồng, tăng 70% so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, Dệt may Hòa Thọ ghi nhận 2.587 tỷ đồng doanh thu và 185 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tăng lần lượt 14% và tăng 61% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là mức lãi ròng bán niên cao nhất từ trước đến nay của doanh nghiệp.
Phía công ty cũng giải thích nguyên nhân cho mức chênh lệch trên vì từ đầu năm đến nay, thị trường dệt may Việt Nam tăng trưởng, đơn hàng ổn định, nhu cầu và giá bán của ngành sợi được cải thiện so với cùng kỳ.
Việc tăng cường các hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn trong kỳ cũng như việc kiểm soát tốt các chi phí sản xuất kinh doanh cũng đã góp phần cải thiện hiệu quả kinh doanh so với cùng kỳ.
Cùng với đó, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG (Dệt may TNG, HoSE: TNG) ghi nhận doanh thu thuần đạt hơn 2.500 tỷ đồng, tăng trưởng 16% so với cùng kỳ năm 2024. Đồng thời, doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty cũng tăng trưởng 25%, đạt 30 tỷ đồng. Ngược lại, chi phí tài chính và chi phí bán hàng trong kỳ đã được tiết giảm.
Kết quả, Dệt may TNG báo lãi sau thuế đạt 120 tỷ đồng, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là mức lãi ròng theo quý cao nhất trong lịch sử hoạt động của doanh nghiệp này.
Tính chung 6 tháng đầu năm, Dệt may TNG ghi nhận doanh thu đạt hơn 4.000 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 161 tỷ đồng, lần lượt tăng 14% và tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái.
Phía doanh nghiệp cho biết kết quả kinh doanh trong kỳ tăng trưởng tích cực nhờ việc thúc đẩy hoạt động bán hàng, tối ưu hóa chi phí, cải thiện năng suất lao động, cùng với chính sách tài chính hợp lý.
Cụ thể, doanh thu từ các hoạt động kinh doanh chính của công ty trong kỳ đã tăng mạnh nhờ việc tập trung khai thác các dòng hàng khó, phức tạp cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu. Các đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường mới đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng này.
Ở chiều ngược lại, Công ty Cổ phần Garmex Sài Gòn (UPCoM: GMC) từng là "ông lớn" ngành dệt may tiếp tục chìm sâu trong khó khăn khi báo lỗ ròng hơn 4,4 tỷ đồng trong quý II, tăng mạnh so với mức lỗ gần 500 triệu đồng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của công ty chỉ đạt gần 900 triệu đồng, trong khi lỗ sau thuế lên tới 12,1 tỷ đồng.
Tại thời điểm cuối tháng 6, tổng tài sản của Garmex đạt 364 tỷ đồng, trong đó riêng hàng tồn kho chiếm 109 tỷ đồng, chủ yếu là thành phẩm từ hợp đồng cũ với Gilimex.
Đáng chú ý, mảng may mặc là lĩnh vực kinh doanh cốt lõi tiếp tục không phát sinh doanh thu. Nguồn thu hiện nay chủ yếu đến từ công ty liên kết VinaPrint (508 triệu đồng), cùng một phần nhỏ từ hoạt động kinh doanh nhà thuốc và dịch vụ.
Vẫn còn thách thức trong thời gian tới
Theo báo cáo của ASEANSC, triển vọng xuất khẩu ngành dệt may trong nửa cuối năm vẫn tích cực, song tốc độ tăng trưởng có thể chậm lại. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam trong năm 2025 đạt khoảng 40,1 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm 2024.
Riêng 6 tháng cuối năm, mức tăng trưởng dự báo khoảng 5%, thấp hơn so với nửa đầu năm. Nguyên nhân là do hiệu ứng "chạy đơn" trước điều chỉnh thuế đã qua đi, trong khi thương mại toàn cầu vẫn tiềm ẩn nhiều bất ổn. Ngoài ra, lượng hàng tồn kho lớn tại các thương hiệu thời trang quốc tế có thể khiến nhu cầu nhập khẩu chững lại trong nửa cuối năm.
Tuy vậy, Việt Nam đang sở hữu lợi thế cạnh tranh rõ rệt về thuế quan so với các đối thủ khi Mỹ áp thuế cao với hàng dệt may từ Trung Quốc, Bangladesh, Campuchia.
Nhờ đó, thị phần may mặc của Việt Nam tại Mỹ được kỳ vọng tăng từ 19% lên 21% trong năm 2025, đặc biệt ở phân khúc hàng cao cấp, nơi Việt Nam đang trực tiếp cạnh tranh với Trung Quốc.
Nhận định về ngành dệt may Việt Nam 6 tháng cuối năm và thời gian tiếp theo, ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch Vitas dự báo cả năm 2025 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 46 - 47 tỷ USD.
Ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch Vitas dự báo năm 2025, xuất khẩu dệt may ước đạt 46 - 47 tỷ USD.
Theo đó, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với nhiều thách thức như: Áp lực thuế đối ứng của Mỹ, do kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành; Căng thẳng địa chính trị, Xung đột thương mại giữa các cường quốc là đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Ông Cẩm cũng cho biết, ngoài thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, doanh nghiệp dệt may cần tập trung vào các thị trường tiềm năng như Trung Quốc (hàng giá trị cao), Canada, Nga, Anh, ASEAN...
Đồng thời tăng cường thu hút đầu tư từ đầu tư FDI và doanh nghiệp trong nước, đặc biệt vào các khu công nghiệp đạt chuẩn về môi trường. Phát triển NPL trong nước để chủ động nguồn cung và đáp ứng xuất xứ của FTA để hưởng lợi ích thuế quan; Phát triển thị trường nội địa và thương hiệu Việt; Chuyển đổi nhanh phương thức sản xuất xuất khẩu từ CMT sang FOB, ODM, và OBM.
Phạm Thị Thanh Loan