Xây dựng bộ 28 chỉ tiêu thống kê kinh tế-xã hội cấp tỉnh sau sáp nhập
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết thống kê là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước và hoạch định chính sách phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu về chất lượng thông tin thống kê ngày càng cao, nhất là trong việc phục vụ xây dựng văn kiện đại hội đảng các cấp.
Theo đó, việc xây dựng các văn kiện đại hội đòi hỏi phải có hệ thống số liệu thống kê phản ánh đầy đủ, toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tính so sánh và khả thi trong việc đo lường, định lượng, làm cơ sở để đánh giá kết quả nhiệm kỳ qua và xác định phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển cho nhiệm kỳ tới.
“Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ ngành, địa phương xây dựng bộ chỉ tiêu thống kê kinh tế - xã hội cấp tỉnh và cấp xã phục vụ đại hội đảng bộ cấp tỉnh, cấp xã nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là lần đầu tiên Bộ Tài chính đề xuất và chủ trì xây dựng bộ chỉ tiêu thống kê kinh tế - xã hội nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ, đảm bảo tính so sánh giữa các tỉnh, thành phố và các xã, phường trên phạm vi toàn quốc”, bà Ngọc nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc phát biểu
Theo đó, trên cơ sở 28 chỉ tiêu thống kê kinh tế - xã hội cấp tỉnh đề xuất, Cục Thống kê đã biên soạn và tổng hợp dãy số liệu của 34 tỉnh, thành phố (mới) trực thuộc trung ương giai đoạn 2010-2025 và xây dựng kịch bản tăng trưởng cơ sở giai đoạn 2026-2030 của 34 địa phương sau sáp nhập.
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh, Trưởng ban Hệ thống tài khoản quốc gia, Cục Thống kê cho biết tổng sản phẩm trên địa bàn là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong một khoảng thời gian nhất định. GRDP phản ánh kết quả sản xuất kinh tế nội vùng và là cơ sở quan trọng để đánh giá sự phát triển kinh tế của địa phương.
“Theo đó, không bao gồm giá trị sản phẩm, dịch vụ đã sử dụng ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất. Chỉ tính giá trị gia tăng do các đơn vị thường trú trên địa bàn tạo ra”, bà Hạnh lưu ý.
Bà Phạm Thị Quỳnh Lợi, Trưởng ban Thống kê xã hội và môi trường cho biết yêu cầu chung của chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người cấp tỉnh, cấp xã đó là đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và so sánh; đảm bảo độ tin cậy, phản ánh xác thực thu nhập bình quân đầu người/năm trên địa bàn cấp tỉnh, cấp xã...
Chỉ tiêu tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số
Cục Thống kê cũng giới thiệu chỉ tiêu tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số (KTS) trong GRDP. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa tổng trị giá tăng thêm do KTS tạo ra so với tổng sản phẩm trên địa bàn trong kỳ báo cáo.
Trị giá tăng thêm của KTS được tính bằng trị giá tăng thêm của KTS lõi cộng với trị giá tăng thêm của các hoạt động kinh tế khác được số hóa.
KTS lõi gồm 7 nhóm ngành: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (theo phân ngành kinh tế chính là mã ngành 26); nhóm ngành bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi, phần mềm, thiết bị và linh kiện điện tử, viễn thông; ngành xuất bản phần mềm; ngành viễn thông; lập trình máy vi tính, dịch vụ tư vấn và các hoạt động khác liên quan đến máy vi tính; hoạt động dịch vụ thông tin gồm xử lý dữ liệu và hoạt động cho thuê có liên quan, cổng thông tin; hoạt động sửa chữa máy vi tính, thiết bị ngoại vi và thông tin liên lạc; các ngành kinh tế được số hóa, là các ngành kinh tế khác không phải ngành lõi có sử dụng các sản phẩm ngành lõi làm yếu tố đầu vào.
Phương pháp đo lường kinh tế số lõi
Đối với KTS lõi, thông tin biên soạn chủ yếu lấy từ điều tra, chế độ báo cáo, dữ liệu hành chính. Còn khi tính toán số hóa của các ngành khác (hay gọi là số hóa của ngành phi số), ngoài thông tin từ bảng IO theo ngành kinh tế cấp 2, các ngành này còn được tính toán dựa trên các nguồn thông tin khác nhau theo từng nhóm cụ thể:
Nhóm 1: Ngành số hóa toàn bộ: Ngành phát thanh truyền hình mặc dù được xét là ngành được số hóa nhưng đây là một trong những ngành đang chuyển đổi số mạnh mẽ nên toàn bộ trị giá tăng thêm của ngành này được tính đóng góp vào KTS.
Nhóm 2: Các ngành số hóa cao đó là ngành thuộc quản lý nhà nước, giáo dục đào tạo, y tế là các ngành thuộc khu vực dịch vụ công (hành chính - công quyền, giáo dục - đào tạo, y tế). Hiện nay, hoạt động số hóa trong các ngành này đang diễn ra mạnh mẽ.
Nhóm 3: Nhóm ngành truyền thống có ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: thương mại điện tử, nông nghiệp công nghệ cao, gọi xe công nghệ, lưu trú, ăn uống, dịch vụ cho thuê nhà R&B.
Việc tính toán dựa vào tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng công nghệ số, tỷ lệ doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trực tuyến, tỷ lệ giao dịch qua nền tảng số từ các cuộc điều tra hằng năm; nguồn thông tin, số liệu từ các cuộc điều tra thường xuyên đối với đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ qua nền tảng thương mại điện tử, doanh nghiệp cung cấp nền tảng số, tỷ lệ doanh thu bán hàng trực tuyến…
Đối với các nhóm ngành khác còn lại, tỷ lệ số hóa được tính dựa vào tỷ lệ chi phí cho ứng dụng công nghệ thông tin, chi cho chuyển đổi số, các chi phí khác liên quan đến công nghệ thông tin dựa vào các số liệu điều tra liên quan đến chi phí như điều tra IO, điều tra hằng năm để tính toán.
Tuy vậy, Cục Thống kê cũng cho rằng để dự báo chỉ tiêu tỷ trọng KTS trong những năm tiếp theo thực sự khó vì hiện nay xu hướng phát triển KTS rất nhanh, chưa có nguồn thông tin ước tính đầy đủ. Tuy nhiên hiện nay khi xây dựng nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 14, nhiều địa phường cũng phải dự báo, ước tính chỉ tiêu này.
Lam Thanh