Khu bến cảng Mỹ Thủy (Quảng Trị) được xem là mô hình điểm, mở ra cơ hội rộng mở cho ngành logistics Việt Nam xanh hóa chuỗi cung ứng. Ông Trần Chí Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), đã chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương về tầm quan trọng của mô hình này trong việc thúc đẩy khu thương mại tự do (freeport) theo chuẩn quốc tế.
Tránh lãng phí nguồn lực, giảm thiểu chất thải để bảo vệ môi trường
- Là người đã có hơn 15 năm gắn bó với lĩnh vực logistics, ông có thể chia sẻ rõ hơn về định nghĩa phát triển cảng xanh, cảng số tại Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế và với mô hình khu bến cảng Mỹ Thủy (Quảng Trị) đang tích hợp các yếu tố này như thế nào?
Ông Trần Chí Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA)
Ông Trần Chí Dũng:Với khu bến cảng Mỹ Thủy (Quảng Trị) được xem là mô hình điểm cho cảng số và cảng xanh, Việt Nam đang cho thấy tầm nhìn dài hạn trong việc xây dựng hệ thống logistics bền vững, tích hợp chuyển đổi số và tự động hóa.
Theo tiêu chuẩn châu Âu, cảng xanh dựa trên 5 tiêu chí chính.
Thứ nhất, giảm thiểu sử dụng năng lượng không tái tạo bằng cách áp dụng các biện pháp đo lường cụ thể, chuyển từ trạng thái ban đầu sang cải thiện dần.
Thứ hai, tối ưu hóa hoạt động khai thác để tăng năng suất với cùng mức năng lượng, thông qua tự động hóa như xe cộ, cần cẩu, băng tải và hệ thống vận hành thông minh.
Thứ ba, xử lý và hạn chế chất thải để bảo vệ môi trường.
Thứ tư, sử dụng trí tuệ nhân tạo hoặc công nghệ để tối ưu hóa vận hành.
Thứ năm, khai thác hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là đất đai, vì cảng chiếm nhiều diện tích kho bãi.
Khu bến cảng Mỹ Thủy được thiết kế ngay từ đầu là cảng số, không cần chuyển đổi từ mô hình cũ. Điều này cho phép tích hợp tự động hóa toàn diện từ lập kế hoạch, điều hành khai thác, dịch vụ khách hàng đến số hóa chứng từ. Hệ thống số giám sát các chỉ số xanh, đảm bảo cải thiện hàng ngày, từ “đỏ” sang “xanh”. Ví dụ, Mỹ Thủy sử dụng công nghệ tự động hóa để quản lý dòng hàng, giảm tiêu thụ năng lượng và tối ưu không gian, hướng tới chuẩn cảng xanh quốc tế.
- Xin ông cho biết, tiến độ triển khai khu bến cảng Mỹ Thủy đến thời điểm hiện nay? Mô hình này đáp ứng chuẩn quốc tế hướng tới xây dựng hệ thống logistics bền vữngnhư thế nào, thưa ông?
Ông Trần Chí Dũng: Khu bến cảng Mỹ Thủy hiện đã hoàn thiện khoảng 60% bến 1 và bến 2, thuộc kế hoạch xây dựng 4 bến đầu tiên. Hai bến này dự kiến đi vào hoạt động tháng 3/2026, với việc áp dụng toàn bộ công nghệ hiện đại vào cuối năm 2026.
Quy mô hiện được duyệt là 10 bến cho tàu 100.000 tấn, nhưng chúng tôi đang xin mở rộng lên 25 bến, đón tàu 250.000 tấn, phục vụ đa dạng hàng hóa: hàng rời, hàng khô, hàng dự án, container, thậm chí terminal dầu khí riêng và dịch vụ hàng hải.
Mỹ Thủy sử dụng công nghệ tự động hóa để quản lý dòng hàng, giảm tiêu thụ năng lượng và tối ưu không gian, hướng tới chuẩn cảng xanh quốc tế
Mỹ Thủy được quy hoạch là cảng số và xanh từ đầu, tích hợp tự động hóa và công nghệ 4.0 để tối ưu hóa vận hành, từ lịch tàu đến xếp dỡ hàng. Mô hình này hướng tới chuẩn freeport miễn thuế, với các dịch vụ logistics số hóa, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Đầu tư chủ yếu từ tư nhân, nhưng Chính phủ hỗ trợ qua chính sách, vay vốn ưu đãi, tạo điều kiện để Mỹ Thủy trở thành trung tâm logistics khu vực miền Trung, chiếm khoảng 50% sản lượng vận chuyển khu vực.
Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt hội nhập sâu vào thị trường quốc tế
- Việc hoàn thành khu bến cảng Mỹ Thủy được kỳ vọng ra sao trong việc phát triển chuỗi cung ứng logistics xanh và hiện đại, trong đó, trọng tâm thúc đẩy xuất khẩu, thưa ông?
Ông Trần Chí Dũng: Chính phủ kỳ vọng khu bến cảng Mỹ Thủy trở thành mô hình điểm cho cảng xanh và số hóa, đóng vai trò “trái tim” của chuỗi cung ứng logistics tại miền Trung và cả nước.
Theo Nghị định số 57/2024/NĐ-CP của Chính phủ: Về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa, Mỹ Thủy không chỉ là cảng biển mà còn là trung tâm logistics quốc tế, tích hợp khu thương mại tự do (freeport) để thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất nhập khẩu. Mục tiêu là xây dựng một hệ sinh thái số, kết nối chủ hàng, công ty logistics và hãng tàu trong vùng hậu phương trực tiếp (50km), mở rộng (100km) và gián tiếp (500km).
Chính phủ mong muốn Mỹ Thủy đạt sản lượng lớn (dự kiến 100 triệu tấn/năm), giúp đàm phán giá tốt, cắt giảm trung gian và giảm chi phí logistics. Đồng thời, mô hình xanh giúp tiết kiệm năng lượng, nhân công, không gian và thông tin, hướng tới phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, thông qua các chính sách hỗ trợ ưu đãi và sự phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành như Bộ Công Thương, đã tạo nền tảng để Mỹ Thủy dẫn dắt xu hướng logistics xanh, nâng tầm vị thế Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
- So với cảng truyền thống, khu bến cảng Mỹ Thủy có những điểm khác biệt nào và cần làm gì để thúc đẩy khu thương mại tự do thông qua các giải pháp tích hợp tại cảng, thưa ông?
Ông Trần Chí Dũng: Nhìn vào thực tế ta có thể thấy, cảng truyền thống thụ động, phụ thuộc hoàn cảnh tại chỗ, thiếu tối ưu hóa. Mỹ Thủy, với mô hình cảng số và xanh, áp dụng công nghệ tự động hóa từ khâu lập kế hoạch đến khai thác, tính toán trước vị trí hàng hóa, thời gian xếp dỡ. Điều này cần dữ liệu, kinh nghiệm và mô hình kinh doanh để biến kế hoạch thành thực tế.
Cảng xanh tại Mỹ Thủy tiết kiệm năng lượng, nhân công, không gian và thông tin, hướng tới phát triển bền vững. Một trong những giải pháp tối ưu với Mỹ Thủy là có sự đầu tư từ ban đầu về tư duy, phương pháp, sau đó là chú trọng đầu tư phần mềm tích hợp chỉ số xanh.
Riêng về thúc đẩy khu thương mại tự do, tại Mỹ Thủy có sự tích hợp chuỗi cung ứng số, cho phép chủ hàng mua bán trực tiếp trên nền tảng, loại bỏ trung gian như hãng tàu chèn ép giá. Với sản lượng lớn, giá tốt, kết nối người mua - bán hiệu quả, được hỗ trợ bởi Nghị định số 57/2024/NĐ-CP của Chính phủ sẽ là trợ lực biến cảng thành trung tâm logistics quốc tế. Điều này không chỉ thúc đẩy kinh tế xanh mà còn tạo động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Dự án khu bến cảng Mỹ Thủy được phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 16/QĐ-TTg ngày 04/01/2019. Dự án là một phần của Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị nói riêng, và của hành lang Đông - Tây giữa Thái Lan - Lào - Việt Nam nói chung. Do xác định được ý nghĩa chiến lược quan trọng của cảng từ sớm, Dự án khu bến cảng Mỹ Thủy đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng quy mô cảng lên đến 685 ha, triển khai theo 3 giai đoạn với 10 bến tàu, đáp ứng nhu cầu xếp dỡ hàng hóa đa dạng từ container, hàng rời đến hàng siêu trọng. Trong đó, giai đoạn 1 (2018 - 2025), đầu tư 4 bến với tổng vốn đầu tư 4.946 tỷ đồng; giai đoạn 2 (2026 - 2031) đầu tư 3 bến với tổng vốn đầu tư 4.980 tỷ đồng và giai đoạn 3 (2032 - 2036) đầu tư 3 bến với tổng vốn đầu tư 4.308 tỷ đồng.
Đỗ Nga