Xây dựng lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa trong cao trào vận động giải phóng dân tộc (1939-1945)

Xây dựng lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa trong cao trào vận động giải phóng dân tộc (1939-1945)
4 giờ trướcBài gốc
Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940. Ảnh: Bích Nguyên
Ngày 6/11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị nhấn mạnh việc củng cố Đảng về mọi mặt, quyết định những chủ trương và biện pháp cụ thể như: Lựa chọn cán bộ, kiểm soát việc thực hiện nghị quyết, liên hệ với quần chúng, thực hiện tự phê bình. Nhằm tập trung lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương. Nghị quyết của hội nghị nêu rõ: “Liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới nền thống trị đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng cho dân tộc, để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc đòi hòa bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương với quyền dân tộc tự quyết”[2].
Ngày 23/9/1940, quân Nhật đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn. Tại Lạng Sơn, quân Pháp thất bại nặng nề, chính quyền địch tan rã. Nhân thời cơ đó, đêm 27/9/1940, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương đã nổi dậy. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn giành được thắng lợi nhanh chóng. Từ trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã ra đời Đội du kích Bắc Sơn.
Tại Nam Kỳ, đêm 22, rạng ngày 23/11/1940, khởi nghĩa đã nổ ra ở nhiều vùng từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, ở Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hóc Môn, Cai Lậy, Vũng Liêm. Chính quyền cách mạng đã được lập nên ở nhiều nơi. Trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã xuất hiện Quân du kích Nam Kỳ, một trong những lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của nhân dân ta.
Được sự cổ vũ về mặt tinh thần của khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ, ngày 13/1/1941, cuộc binh biến Đô Lương của binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổ ra. Cuộc binh biến thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp của một bộ phận binh lính người Việt trong quân đội Pháp.
Chỉ trong thời gian ngắn (tháng 9/1940 đến tháng 1/1941), đã nổ ra 3 cuộc khởi nghĩa và binh biến. Đây được coi là “những tiếng súng báo hiệu” cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc. Qua đây cho thấy, muốn khởi nghĩa thắng lợi chủ yếu phải dựa vào lực lượng quần chúng đông đảo, trước hết là dựa vào quần chúng công nhân, nông dân và phải có lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt.
Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, đã diễn ra Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị chủ trương: “Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”[3]. Hội nghị chỉ rõ, trong việc chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, nếu không có phong trào chính trị sâu rộng của quần chúng cách mạng thì không thể có khởi nghĩa thắng lợi. Trên cơ sở các tổ chức chính trị rộng rãi, vững chắc của quần chúng cách mạng mà tổ chức ra lực lượng vũ trang vững mạnh.
Để tập hợp lực lượng đông đảo của nhân dân, hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống đế quốc, phát xít Pháp, Nhật, lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Hội nghị đã chọn miền rừng núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai và Cao Bằng làm hai điểm trung tâm và làm bàn đạp phát động đấu tranh vũ trang thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, việc xây dựng lực lượng vũ trang được đẩy mạnh. Ngày 23/2/1941, Trung đội Cứu quốc quân 1 được chính thức thành lập. Đến ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân 2 ra đời. Tháng 11/1941, Đội vũ trang ở Cao Bằng chính thức ra mắt. Ngày 25/2/1944, Trung đội Cứu quốc quân 3 được thành lập. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22/12/1944, Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được tổ chức tại một khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Tại Quảng Ngãi, ngày 14/3/1945, Đội du kích Ba Tơ cũng ra đời. Đây chính là những tổ chức vũ trang nòng cốt trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, sẵn sàng tham gia, hỗ trợ quần chúng nhân dân khi thời cơ tới.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng chủ trì. Hội nghị quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng khác, thành một lực lượng vũ trang thống nhất mang tên là Việt Nam Giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ngày 15/5/1945, Lễ thống nhất lực lượng vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức ở bãi Thàn Mát, gần cây đa đình làng Quặng, xã Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ 6 tỉnh Việt Bắc thành lập Khu giải phóng. Khu giải phóng rộng 40.000km2, bao gồm các châu, huyện, vùng giải phóng của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một vùng bên ngoài gồm một bộ phận các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Khu giải phóng được xây dựng vững chắc về mọi mặt để làm bàn đạp giải phóng toàn quốc. Cùng với đó, việc xây dựng các căn cứ cách mạng ở các địa phương trên cả nước cũng được tiến hành khẩn trương, với sự ra đời của các chiến khu như: Quang Trung, Trần Hưng Đạo.
Trong lúc cả nước sôi sục không khí cách mạng thì Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào những ngày cuối. Trong không khí khẩn trương, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (tháng 8/1945) nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Theo lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một, nhất tề đứng dậy. Trong thời gian ngắn, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập từ Trung ương đến hầu khắp các địa phương. Thắng lợi này là sự kết tinh của quá trình chuẩn bị về lực lượng lâu dài của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám thành công, trở thành một mốc son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước; đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hà Hải
------------------------------------------
[1] Dẫn theo: Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.341.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6 (1936-1939), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.537.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.131.
Nguồn Biên Phòng : https://bienphong.com.vn/xay-dung-luc-luong-chuan-bi-cho-tong-khoi-nghia-trong-cao-trao-van-dong-giai-phong-dan-toc-1939-1945-post493197.html