Xây dựng nhân cách con người trong kỷ nguyên số

Xây dựng nhân cách con người trong kỷ nguyên số
5 giờ trướcBài gốc
I. Con người và nhân cách con người
1. Con người (Human)[1] được hiểu là một thực thể xã hội, và trong tính trừu tượng triết học của thuật ngữ này, đó là giao điểm của những quan hệ xã hội.
Trong triết học và tâm lý học, người ta đi sâu nghiên cứu bản chất con người (Human nature), tức là tìm hiểu những đặc điểm, những phẩm chất chung, cố hữu của loài người.
Theo quan điểm của Karl Marx, để hiểu về bản chất con người, ta phải xem xét trong những mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, phong phú của mỗi cá thể người.
Luận điểm triết học nổi tiếng của K.Marx là: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội".
Theo quan điểm của K.Marx, để đi tìm bản chất con người thì về phương pháp luận nghiên cứu, ta sẽ không thành công nếu thâm nhập vào những đặc điểm giải phẫu sinh lý, mà phải mổ xẻ những mối quan hệ xã hội của họ.
Nói cách khác, bản chất con người nằm ở ngoài cơ thể con người. Đánh giá một con người, phải xem xét những hành vi, hành động của họ khi thực hiện những quan hệ xã hội thông qua những vai trò (Role) mà họ phải đóng vai trong cuộc sống.
2. Mỗi con người đều có cuộc sống riêng. Xét trên bình diện xã hội, cuộc sống con người là những dòng hoạt động. Khi cái chết diễn ra, toàn bộ các hoạt động của con người cụ thể sẽ dừng lại. Lúc đó, những giá trị của họ còn lại trong những sản phẩm lao động mà họ làm ra. Những sản phẩm ấy có thể ở dạng vật chất, cũng có thể ở dạng phi vật chất (sản phẩm tinh thần). Những người không hoạt động thì họ không để lại cho đời những giá trị nào cả. Sự bất tử của một người cụ thể nào đó là những giá trị vĩnh hằng mà họ để lại cho hậu thế.
3. Mỗi con người đều có một bộ mặt tâm lý riêng của mình. Đó là những đặc điểm tâm lý độc nhất vô nhị, làm cho người này khác với người khác. Đặc điểm ấy gọi là cá tính (Individuality), là cái đơn nhất, độc đáo, riêng biệt. Cá tính là cái không lặp lại. Trên thế gian, có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cá tính. Trong nhân loại, bất cứ cá thể nào cũng có những năng lực riêng, những phẩm chất tâm lý riêng.
Nghiên cứu vài tỷ người, may ra tìm được một cặp người có một số nét cá tính gần giống nhau, nhưng hai cá tính đó không phải là sự lặp lại, trùng khớp lên nhau. Khi chúng ta mất đi một người thân, sự đau buồn sâu sắc nhất là ta đã mất đi một con người mà cá tính của họ không tìm thấy ở một thời điểm khác, tại một không gian khác.
Thế giới luôn tiến về phía trước nhờ ở sự đa dạng không giới hạn của những cá tính. Sự trùng lặp cá tính (giống hệt nhau về năng lực, đạo đức) không mang lại tiến hóa. Vì thế, một nền giáo dục "đúc" trẻ em theo cùng một khuôn mẫu cá tính được coi là nền giáo dục mài mòn cá tính, làm triệt tiêu sự đa đạng về tài năng và đức độ trong những thế hệ trẻ nối tiếp nhau qua các giai đoạn phát triển xã hội.
4. Trong thế giới tự nhiên, mỗi loài động vật hay thực vật đều là tập hợp những sinh vật riêng lẻ, được gọi là cá thể. Trong loài người, cá thể được gọi là cá nhân (Individual). Cá nhân là đơn vị của loài người xét từ cộng đồng xã hội. Khi ra đời, mỗi con người đều là cá nhân, xã hội phải tôn trọng từng cá nhân, tất cả "mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được" (Tuyên ngôn Độc lập, 1945).
Cá tính của mỗi cá nhân không phải cái bẩm sinh (Inborn), mà là cái được hình thành qua giáo dục. Con người ra đời, lớn lên trong những môi trường giáo dục khác nhau (gia đình, nhà trường và xã hội).
Dưới sự tác động của những môi trường giáo dục này, cá tính con người dần hình thành và phát triển trong quá trình kéo dài suốt đời. Đó là quá trình cá tính hóa (Individuation), làm cho con người khác biệt với tất cả những con người khác.
Nhiều khi quá trình cá tính hóa được gọi là cá thể hóa. Việc nhận diện một con người được căn cứ vào những đặc trưng cá tính thể hiện ở những năng lực, kỹ năng, lối tư duy, tính cách, đức độ..., trên cơ sở đó mà ta có những nhận xét về cái riêng trong tâm lý con người.
5. Xã hội được hợp thành từ những con người cụ thể. Thế giới loài người là một xã hội với quy mô toàn cầu, trong đó bao gồm những cộng đồng người với những nét khác nhau về văn hóa, về lịch sử phát triển, về phương thức sản xuất.
Những cộng đồng người khác nhau tập hợp lại thành những quốc gia (State/Nation), những đất nước (Country/Land). Đây là 2 khái niệm thường được dùng thay thế nhau, nhưng về thực chất, hai khái niệm nay mang sắc thái khác nhau.
Nói về quốc gia, chúng ta đang nhấn mạnh vấn đề luật pháp, chính trị, quan hệ quốc tế; còn khi nói về đất nước, đó là khi xem xét một cộng đồng trên một vùng đất, một lãnh thổ với những đặc điểm địa lý, văn hóa, lịch sử và con người sống trên vùng đất đó.
Những thành viên trong một quốc gia/đất nước đều được gọi là công dân (Citizen). Đất nước đòi hỏi công dân của mình phải mang những chuẩn mực pháp luật, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ. Những chuẩn mực trong công dân được coi là nhân cách (Personality).
Nhân cách là một tích hợp trong cá nhân những đặc điểm, những giá trị có ý nghĩa tích cực đối với một xã hội nhất định. Những đặc điểm ấy được thể hiện ở một lối sống riêng kiểu lao động riêng, kiểu giao tiếp riêng, kiểu tư duy sáng tạo riêng của những công dân cụ thể với tư cách là một nhân cách.
Nhân cách hình thành và phát triển trong hoạt động và giao tiếp. Không thể xét đoán nhân cách của một người ngoài những hoạt động và những cuộc giao tiếp, ngoài sự tương tác của họ với người khác, với cộng đồng.
Nhà Tâm lý học Kossakovky người Đức có một ý kiến rất chí lý rằng, chúng ta không thể xét đoán nhân cách của một người đang ngủ. Giả sử có ai đó sống một mình trên cung trăng hoặc sống một mình trên đỉnh núi, ẩn dật tại vùng rừng cây bạt ngàn, không làm gì cho xã hội, không quan hệ với bất cứ ai, thì họ "không bộc lộ nhân cách".
Không đối diện với người thứ hai, đứng ngoài các hoạt động xã hội, nhân cách không hình thành và phát triển. Do vậy, nếu "bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội" (Karl Marx) thì "nhân cách con người là những quan hệ giữa những hành vi" (Lucien Sève)[2].
Với hiểu biết trên, có thể nói tóm tắt như sau: "Nhân cách là sự phản ánh tích cực những đặc điểm điển hình và không lặp lại về phương diện lịch sử của một thời đại trong cá nhân".
6. Nhân cách là một sản phẩm muộn, bởi nó không phải là cái bẩm sinh; nó là cái được hình thành và phát triển sau khi con người ra đời - theo nhà tâm lý học Xô Viết lỗi lạc Lidia Isaevna Бozovich.
Tiêu chuẩn cơ bản để xuất hiện nhân cách của con người là ý thức (consciousness). Khi tâm lý con người đạt tới một trình độ nhất định, con người mới nhận thức được rằng, họ đối diện với những người khác. Vào thời điểm đó, con người có cái Tôi (ego), tức là cái bản ngã, là chủ thể của hoạt động, chủ thể của những mối quan hệ xã hội.
Một câu hỏi tưởng dễ, nhưng thật ra không phải ai cũng trả lời được: "Trong xã hội, những người nào không có nhân cách?" Câu trả lời sai là: "Người bị tù tội, do phạm pháp, là người không có nhân cách". Những phạm nhân vẫn có nhân cách nhưng thiếu phẩm chất tốt đẹp. Ở họ nhân cách phát triển lệch lạc so với yêu cầu của đời sống xã hội. Nhân cách của họ "phản xã hội". Sự lệch lạc đó khiến họ bị pháp luật tước quyền công dân. Để được hoàn lương, những phạm nhân phải tu dưỡng để nhân cách phát triển, họ phải cải tạo để phục hồi nhân phẩm, thông qua quá trình phục hồi để tạo ra những giá trị mà xã hội đòi hỏi.
Chính vì vậy, nhà tây lý học Xô Viết người Nga Konstantin Konstantinovich Platano đã định nghĩa: "Nhân cách là người mang ý thức"[3]
7. Nhân cách của con người không phải là một thuộc tính tĩnh - Nhiều nhà Tâm lý học coi nhân cách một cấu trúc (tổ chức) luôn mang tính mới, bởi lẽ nhân cách của con người không phải là một thuộc tính tĩnh, mà nó luôn có sự vận động hoặc phát triển đi lên, hoặc suy thoái đi xuống.
Những lao động tiên tiến, những người khởi nghiệp thành công, những chiến sĩ quên mình bảo vệ nhân dân... là những nhân cách phát triển. Những cán bộ, đảng viên công chức tham ô, phạm pháp là những người có nhân cách suy thoái.
Sự phát triển nhân cách thể hiện cấu trúc của nó luôn được bổ sung và liên tục được hoàn thiện bởi những giá trị mới, nhờ đó, nhân cách luôn phù hơp với những gì do xã hội đòi hỏi. Ngược lại, nhân cách có thể suy thoái, phát triển lệch so với thang giá trị mà xã hội quy định.
Lúc đó, con người cần được giáo dục lại, cần có quá trình cải tạo, uốn nắn, đặc biệt là cần đến sự tự giác tu dưỡng của cá nhân. Con người luôn phải quan tâm đến sự hoàn thiện nhân cách của mình trước những thay đổi nhanh chóng, liên tục và nhiều khi bất thường của xã hội, của thế giới bên ngoài.
Nói rằng, nhân cách là một cấu trúc tâm lý mới, cũng có nghĩa là, nó luôn luôn phải được hoàn thiện, hoàn thiện liên tục, hoàn thiện suốt đời. Nếu thế giới phát triển vô hạn, tri thức của nhân loại cũng gia tăng vô hạn thì sự hoàn thiện nhân cách cũng là vô hạn.
Chìa khóa của việc hoàn thiện nhân cách một cách liên tục là học tập suốt đời.
II. Nhân cách trong kỷ nguyên số
Sau khi thống nhất được quan niệm về nhân cách, chúng ta bàn tới vấn đề thời sự của nhân cách: Khi cả nước tiến vào kỷ nguyên số, nhân cách của công dân sẽ có những đặc trưng nào.
1. Về phương diện lý thuyết, các nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội học và triết học thường nói đến cấu trúc tâm lý của nhân cách, từ đó, họ nói tới những thuộc tính tâm lý trong từng phần của cấu trúc tổng thể. Trên thế giới có nhiều trường phái tâm lý học, giáo dục học... khác nhau nên trong sách báo khoa học ta bắt gặp khá nhiều mô hình về cấu trúc của nhân cách khác nhau.
Sau đây là một vài thí dụ:
- Nhà Phân tâm học Sigmund Freud cho rằng, nhân cách có cấu trúc 3 phần: Cái Nó/bản năng (Id); cái Tôi (Ego) và cái Siêu tôi (Superego). Theo ông, cái Nó là phần vô thức, nó tách khỏi những vấn đề quan hệ xã hội. Cái Tôi là phần có ý thức, nó hoạt động để đáp ứng nhu cầu cá nhân, được xã hội chấp nhận. Cái Siêu tôi thể hiện ở các chuẩn mực đạo đức, chức năng của nó là kiểm soát và hướng dẫn cái Tôi, tạo ra ở cái Tôi cảm giác tội lỗi khi vi phạm chuẩn mực xã hội. Thực chất của cái siêu tôi là lương tâm con người.
Nhà Tâm lý học Xô Viết K.K.Platonov cho rằng, cấu trúc nhân cách có 4 thành phần:
Xu hướng: Bao gồm nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin, mục tiêu sống...
Tính cách: Bao gồm thái độ và cách ứng xử với người khác, với xã hội và với bản thân.
Khí chất: Thể hiện ở tính khí con người như nóng nảy, ưu tư, hoạt bát, bình tĩnh.
Năng lực: Bao gồm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng khiếu.
Platonov lập luận rằng những phẩm chất, những thuộc tính trong cấu trúc nhân cách giúp cho con người có được chất lượng và hiệu quả trong hoạt động (hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xã hội, nghệ thuật...) được xã hội đánh giá là tài năng của con người.
Nếu những phẩm chất, thuộc tính đó giúp cho con người giải quyết các quan hệ xã hội, được xã hội chấp nhận thì đó là đức độ của người đó.
Như vậy, xét cho cùng, theo quan điểm của Platonov, nhân cách thể hiện ở 2 mặt: tài năng và đức độ.
- Trong di sản văn hóa Hồ Chí Minh, có rất nhiều bài nói, bài viết về con người với tư cách là nhân cách xã hội chủ nghĩa. Với Người, xã hội luôn trông đợi và đòi hỏi ở công dân phải thể hiện được sự hài hòa, cân bằng giữa Đức và Tài.
Quan niệm về tài năng và đức độ trong nhân cách của Platonov rất gần với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cần lưu ý rằng, Platonov nêu lên vấn đề cấu trúc nhân cách sau những trước tác của Hồ Chí Minh khoảng 1/3 thế kỷ.
- Trong quá trình xây dựng xã hội học tập, vấn đề công dân học tập là một nội dung cơ bản. Chỉ khi mọi con người trong xã hội có ý thức học tập suốt đời, và việc người dân tự giác trong cuộc vận động học tập suốt đời thì xã hội mới được coi là hòa nhập vào xu thế xây dựng xã hội học tập trong phạm vi toàn cầu.
Để đánh giá một người đạt được danh hiệu "Công dân học tập", các quốc gia đều xác định bộ tiêu chí đánh giá theo 2 thông số cơ bản: Những năng lực cốt lõi gồm những kỹ năng cơ bản và những phẩm chất mong muốn, phù hợp với yêu cầu của quốc gia về nhân cách công dân.
Điều này phù hợp quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đức và Tài là 2 mặt của nhân cách. Vì vậy, ở Việt Nam, bộ tiêu chí đánh giá, công nhận công dân học tập được thể hiện ở việc xác định những năng lực cốt lõi mà thời đại đặt ra và những chỉ số đánh giá bao gồm những kỹ năng và phẩm chất thuộc những năng lực cốt lõi đã được lựa chọn.
2. Những đặc trưng nhân cách con người, năng lực cốt lõi trong kỷ nguyên số
- Năng lực vận hành thiết bị và dữ liệu: Sử dụng có hiệu quả những thiết bị điện tử phổ biến: Computer, Smartphone, Tablet và có khả năng khắc phục các sự cố khi sử dụng các thiết bị và phần mềm.
- Năng lực thông tin và dữ liệu: Có khả năng tìm kiếm, truy cập và đánh giá thông tin trên mạng và trong môi trường số. Có khả năng phân tích, sử dụng dữ liệu để giải quyết vấn đề phù hợp với đạo đức và pháp luật số.
- Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số: Hiểu rõ và thực thi đúng quyền công dân trong môi trường số. Tham gia các hoạt động trên cộng đồng mạng, các diễn đàn trực tuyến theo luật lệ số. Thực hiện đúng những quy tắc ứng xử trong môi trường số.
- Sáng tạo nội dung: Đổi mới nội dụng với công nghệ số. Có khả năng xây dựng nội dung số. Tuân thủ các giấy phép sử dụng dữ liệu số và bản quyền số. Sử dụng tốt ngôn ngữ lập trình.
- An ninh và an toàn trên không gian mạng: Tuân thủ Luật lệ số một cách nghiêm túc. Giữ gìn bí mật cá nhân, bí mật quốc gia trên mạng. Có khả năng nhận biết những virus độc hại, phần mềm độc hại, những lừa đảo trên mạng, biết cách phòng tránh những mối nguy hiểm trên mạng.
- Năng lực số trong lao động nghề nghiệp: Luôn cập nhật những kỹ năng số mà chuyên môn nghề nghiệp đòi hỏi. Theo dõi và thực hiện công việc chuyên môn theo xu hướng phát triển các công nghệ trong lao động nghề nghiệp. Học tập suốt đời, tham gia các lớp tập huấn nghề thường xuyên, phấn đấu để đạt yêu cầu trở thành Công dân số.
Mỗi công dân trong xã hội số cần có những phẩm chất mong muốn
- Khát vọng làm giàu tri thức trên nền tảng ý thức học tập suốt đời và tự học bền bỉ.
Sự thay đổi đến chóng mặt của tri thức mới, công nghệ mới đòi hỏi con người học hỏi mọi lúc, mọi nơi, không để trong ý thức có những khoảng cách về tri thức đã có so với tri thức cần có.
Cần có khả năng đánh giá, sàng lọc thông tin một cách khách quan, không chấp nhận những thông tin chưa được kiểm chứng. Tư duy phản biện là nền tảng phát triển phẩm chất này.
Có khả năng thích ứng linh hoạt với những thay đổi của môi trường số, của những phương thức làm việc. Nhanh nhẹn, hoạt bát, tinh thần trách nhiệm là cần thiết.
- Những phẩm chất không thể thiếu trong giao tiếp và xây dựng những mối quan hệ xã hội.
Giao tiếp số (qua mạng xã hội, email...) đòi hỏi con người phải biết tôn trọng người khác, tôn trọng sự khác biệt, tôn trọng văn hóa của các cộng đồng dân cư và của các quốc gia.
Phải tránh những hành vi gây hấn, bắt nạt trên mạng (Cyberbullying) trên cơ sở trau giồi văn hóa giao tiếp số (Netiquette), cẩn trọng trong mọi lời nói, phát ngôn trên mạng.
Có khả năng tự bảo vệ và có tinh thần trách nhiệm với những nội dung được bản thân chia sẻ trên mạng.
- Phẩm chất đạo đức và ý chí trong môi trường số
Tính tự chủ và tự giác cao trong lao động, học tập và tham gia các hoạt động xã hội.
Chính trực và giữ gìn những giá trị đức hạnh (Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, con người phải liêm chính để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám hi sinh vì lợi ích chung).
Tinh thần khởi nghiệp thể hiện thông qua những việc làm mang tính sáng tạo, dám mạo hiểm, biết đứng dậy khi thất bại, sống không lệ thuộc, không bắt chước người khác một cách máy móc và giáo điều.
Nhân cách con người Việt Nam trong kỷ nguyên số có thể coi là nhân cách của những người Việt có đủ năng lực cốt lõi, kỹ năng cơ bản và những phẩm chất mong muốn của công dân số hoặc công dân toàn cầu khi cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên số.
Với cách hiểu ấy, với trọng trách của Đảng và Nhà nước giao phó về xây dựng các tiêu chí đánh giá công nhận mô hình Công dân học tập, Hội Khuyến học Việt Nam sẽ nghiên cứu bộ tiêu chí đánh giá công dân học tập với những chỉ số đo về năng lực và đạo đức của người Việt Nam trong xã hội học tập chuyển đổi số giai đoạn 2026-2035.
[1] Để hiểu sâu hơn thuật ngữ "Con người", ta cần tham khảo cách hiểu qua tiếng Anh.
Human: một cá thể của loài người với bản chất sinh học và những đặc trưng, trước hết là tư duy.
Person: Chỉ cá nhân con người cụ thể với tư cách là một cá thể.
People: Chỉ nhiều con người nói chung.
[2] Lucien Sève - Nhà triết học, một nhân vật quan trọng trong Đảng Cộng sản pháp (9/12/1926-23/3/2020)
[3] Người mang (vác) hay người vận chuyển: Tiếng Anh là The Carrier, còn tiếng Pháp là Le porteur. Theo tôi, định nghĩa "Nhân cách là ngời mang ý thức" có thể dịch sang tiếng Anh là "Personality is the carrier of consciousness".
GS.TS Phạm Tất Dong
Nguồn Công dân & Khuyến học : https://congdankhuyenhoc.vn/xay-dung-nhan-cach-con-nguoi-trong-ky-nguyen-so-179251224154942116.htm