Xây dựng vị thế của TPHCM

Xây dựng vị thế của TPHCM
4 giờ trướcBài gốc
Đây là sự tái cấu hình toàn diện không gian phát triển, nơi ba cực kinh tế năng động bậc nhất cả nước hội tụ, với tầm nhìn mới là “siêu đô thị quốc tế” của Đông Nam Á”...
Với dân số 13,6 triệu người, TPHCM đã là một siêu đô thị. Tuy nhiên, về quy mô nền kinh tế, trình độ phát triển và sức hút, TPHCM cần phải phấn đấu rất nhiều để có thể đuổi kịp các đô thị trong khu vực Đông Nam Á và nhìn xa hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Bài viết này định vị TPHCM so với 11 vùng đô thị trong khu vực gồm: Tokyo, Seoul, Thượng Hải, Jakarta, Bắc Kinh, Singapore, Bangkok, Hồng Kông, Manila, Kuala Lumpur và Hà Nội (thứ tự xếp theo GRDP). Dân số được lấy làm tham chiếu, GRDP so sánh quy mô nền kinh tế, GRDP/người đánh giá trình độ phát triển; xếp hạng các thành phố toàn cầu và chỉ số đổi mới sáng tạo được sử dụng để xác định sức hút; và cuối cùng, chi ngân sách so với GRDP được sử dụng để đánh giá khả năng dẫn dắt sự phát triển của chính quyền.
Các kịch bản định vị
Dân số của TPHCM có mức tăng bình quân hàng năm là 1,4% trong giai đoạn 2020-2024 và 2,2% trong giai đoạn 2010-2024; hai con số tương ứng của GRDP là 3,6% và 5,4%. Thành phố đạt được mức tăng GRDP cao nhất ở mức 6,7% trong giai đoạn 2010-2015. Dự thảo Báo cáo Chính trị đưa ra mức tăng trưởng 10-11% cho giai đoạn 2025-2030, đây là mức phải phấn đấu rất cao mới có thể đạt được.
Căn cứ vào những số liệu nêu trên và dự báo tình hình trong thời gian tới, bài phân tích đưa ra bốn kịch bản về tăng trưởng dân số, GRDP và GRDP/người cho TPHCM như ở bảng 1 (các kịch bản này là để hình dung vị trí và khả năng phát triển của TPHCM chứ không phải là các kịch bản dự báo).
Về dân số
Đất lành chim đậu, nói cách khác, dân số là một chỉ tiêu hết sức quan trọng đo lường quy mô và sức hút của một đô thị. Theo số liệu thống kê chính thức của Việt Nam, vào cuối năm 2024, dân số của TPHCM gần 13,6 triệu người. Tuy nhiên, sự phát triển của một vùng đô thị được dựa vào các yếu tố hữu cơ. Do vậy, vùng đô thị thường được sử dụng để so sánh.
13,4% dân số của cả nước ở TPHCM, với 34,9% số doanh nghiệp đã tạo ra khoảng một phần tư GDP và một phần ba số thu ngân sách của cả nước, nhưng TPHCM chỉ chiếm 10,4% mức chi ngân sách của cả nước. Mức chi ngân sách so với GRDP hợp lý với TPHCM trong hai thập niên tới cần nâng lên gấp đôi con số hiện tại hay ở mức của Tokyo và Singapore. Trước mắt, mức chi ngân sách của thành phố nên bằng mặt bằng chung của cả nước hay chi ngân sách so với GRDP của TPHCM cần được nâng ngay lên mức khoảng 10% GRDP, tương đương với Hà Nội hiện nay.
Theo số liệu tổng hợp gần nhất của Metro Population như thể hiện ở hình 1, dân số của vùng đô thị TPHCM là 13,9 triệu người, bằng khoảng một phần ba vùng Tokyo và Thượng Hải; trên dưới một nửa vùng Jakarta, Manila và Seoul; khoảng hai phần ba vùng Bangkok và Bắc Kinh. Trong nhóm các vùng đô thị nằm trên đất liền, dân số TPHCM chỉ cao hơn Kuala Lumpur và Hà Nội; nếu tính cả các đô thị đảo, thành phố vượt Hồng Kông và Singapore.
Với kịch bản cơ bản, sau khoảng ba thập niên nữa dân số TPHCM mới bằng Bắc Kinh hay Bangkok hiện nay, hơn bốn thập niên để có mức của Seoul, trên dưới năm thập niên để có mức của Manila và Jakarta và sang đầu thế kỷ 22 mới có thể bằng vùng Tokyo hay Thượng Hải.
Các con số lần lượt là 2; 3 và 5 thập niên cho kịch bản lạc quan; 1,5; 2 và 4 thập niên cho kịch bản phấn đấu cao; và với kịch bản bi quan thì TPHCM gần như không có cơ hội để bắt kịp các đô thị đã đi trước về quy mô dân số.
Về GRDP
GRDP danh nghĩa năm 2024 của TPHCM là 2,716 triệu tỉ đồng, (tương đương 112 tỉ đô la Mỹ), gấp đôi Hà Nội, nhưng chưa bằng một nửa so với hai vùng đô thị liền kề trước đó là Kuala Lumpur và Manila, thấp hơn rất nhiều các vùng đô thị trước đó nữa như thể hiện ở hình 2. Nói chung, ở phương án với khả năng xảy ra cao nhất thì khoảng gần hai thập niên nữa, GRDP của TPHCM mới có thể bằng bình quân của nhóm thấp, gần ba thập niên với nhóm giữa và gần bốn thập niên với nhóm cao. Cụ thể với các phương án như hình 2.
Ở kịch bản cơ bản, cần khoảng 1,5 thập niên để GRDP của TPHCM có thể bằng con số của Kuala Lumpur và Manila hiện nay; hơn hai thập niên để bằng Hồng Kông hay Bangkok; ba thập niên để bằng Singapore, Bắc Kinh và Jakarta; hơn bốn thập niên để bằng Thượng Hải và Seoul và hơn năm thập niên để bằng Tokyo.
Các con số lần lượt là hơn 1; 2,5; 3,5 và 4,5 thập niên cho kịch bản lạc quan; gần 1; 1,5; 2,5 và 3 thập niên cho kịch bản phấn đấu cao; và với kịch bản bi quan thì TPHCM gần như không có cơ hội để bắt kịp các đô thị đã đi trước về GRDP.
Về GRDP/người
GRDP bình quân đầu người vào năm 2024 của TPHCM ở mức 195 triệu đồng (khoảng 8.100 đô la Mỹ). Con số này cao hơn đáng kể so với mức 6.700 đô la Mỹ của Hà Nội và gấp gần hai lần bình quân cả nước. Tuy nhiên, so với các siêu đô thị trong khu vực, TPHCM vẫn còn khoảng cách lớn. Gần nhất là Manila với mức 10.000 đô la Mỹ; trên đó là Bangkok và Jakarta với mức trên dưới 20.000 đô la Mỹ và so với các đô thị trên đó nữa thì khoảng cách còn cao hơn rất nhiều.
Tương tự như GRDP, ở phương án với khả năng xảy ra cao nhất, cần hơn hai thập niên thì GRDP/người của TPHCM mới có thể bằng bình quân của nhóm thấp, hơn ba thập niên với nhóm giữa và gần năm thập niên với nhóm cao. Cụ thể các phương án như hình 3.
Tầm nhìn xây dựng TPHCM thành siêu đô thị quốc tế trong khu vực Đông Nam Á là cần thiết và phù hợp với bối cảnh hiện tại. Tuy nhiên, việc xác định đúng vị trí và có những bước đi thích hợp mang tính chiến lược là hết sức cần thiết. Trong đó, việc dành đủ nguồn lực cho thành phố là một hành động thiết thực để hiện thực hóa tầm nhìn vươn mình của đất nước.
Với tất cả các kịch bản xảy ra, chỉ trong mấy năm nữa, TPHCM sẽ đuổi kịp Manila về GRDP/người. Tuy nhiên khoảng cách với các đô thị khác là rất lớn. Đối với các đô thị trước đó, trong kịch bản phấn đấu cao thì sẽ cần hơn một thập niên để có mức trên dưới 20.000 đô la Mỹ như Bangkok và Jakarta; gần hai thập niên để có mức trên dưới 30.000 đô la Mỹ; và khoảng ba thập niên để có mức trên dưới 50.000 đô la Mỹ.
Các con số của kịch bản cơ bản là sẽ cần hai thập niên để có mức 20.000 đô la Mỹ, ba thập niên để có mức 30.000 đô la Mỹ và bốn thập niên để có mức trên 40.000 đô la Mỹ; kịch bản lạc quan sẽ nhanh hơn một chút; với kịch bản bi quan thì TPHCM không có cơ hội để đuổi kịp các đô thị đi trước khác về GRDP/người.
Sức hút và năng lực đổi mới sáng tạo
Xếp hạng các thành phố toàn cầu của Hãng tư vấn A.T. Kearney và xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của Innovation-cities được trình bày trong bảng 2.
Trong xếp hạng các thành phố toàn cầu, TPHCM hạng 102, rất thấp so với hai thành phố liền kề là Jakarta hạng 78 và Manila hạng 74, tiếp đến là Kuala Lumpur hạng 55 và Bangkok hạng 34; và so với các đô thị vượt trội hơn thì TPHCM đang thấp hơn hẳn.
Tương tự, về xếp hạng chỉ số thành phố đổi mới sáng tạo, trong khu vực châu Á, TPHCM xếp hạng 73, thấp hơn rất nhiều so với các đô thị trong nhóm so sánh. Ngay đô thị phía trên liền kề TPHCM là Manila thì đã hạng 51.
Nền tảng tạo ra sức hút và đổi mới sáng tạo của TPHCM còn một khoảng cách so với các đô thị khác. Điều này cho thấy thách thức để bắt kịp các đô thị đi trước của TPHCM là rất lớn.
Thêm vào đó, khoảng cách về những hạ tầng cơ bản, đặc biệt là hạ tầng giao thông đô thị của TPHCM còn ở xa phía sau so với các đô thị khác. Ví dụ, thành phố mới có 20 ki lô mét đường sắt đô thị và chưa có các tuyến xe buýt nhanh, trong khi ít nhất là Jakarta cũng đã có hơn TPHCM rất nhiều; và các đô thị khác còn phát triển hơn nữa. Thêm vào đó, đường bộ của thành phố chủ yếu là đường đồng mức trên mặt đất và chiều dài rất khiêm tốn. Phải mất nhiều thập niên nữa thì hệ thống hạ tầng của thành phố mới có thể bằng các đô thị liền kề ở thời điểm hiện nay.
Chi ngân sách của các đô thị
Chính quyền giữ vai trò có thể nói là quan trọng nhất trong việc dẫn dắt sự phát triển của một thành phố. Trong đó, ngân sách có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó thể hiện tính chủ động và khả năng của chính quyền. Dự toán chi ngân sách vào năm 2024 của TPHCM (tổng của ba địa phương) là 237.000 tỉ đồng, bằng 8,4% GRDP. Con số này cao hơn Jakarta, Manila và Bangkok, nhưng chỉ bằng khoảng 80% của Hà Nội và thấp hơn hẳn so với các đô thị đi trước (hình 4). Đây là một vấn đề rất lớn của TPHCM. Nói cách khác, đây là một nan đề cần phải giải.
Có thực mới vực được đạo, nếu vấn đề chi ngân sách không được giải quyết để TPHCM có đủ nguồn lực cần thiết khai thác lợi thế thì thành phố chỉ có thể loay hoay với bài toán trước mắt về tắc nghẽn giao thông, ngập nước và ô nhiễm. Hình 5 cho thấy bất cập trong nguồn lực dành cho TPHCM hiện nay.
13,4% dân số của cả nước nằm ở TPHCM, với 34,9% số doanh nghiệp đã tạo ra khoảng một phần tư GDP và một phần ba số thu ngân sách của cả nước, nhưng TPHCM chỉ chiếm 10,4% mức chi ngân sách của cả nước. Mức chi ngân sách so với GRDP hợp lý với TPHCM trong hai thập niên tới cần nâng lên gấp đôi con số hiện tại hay ở mức của Tokyo và Singapore. Trước mắt, mức chi ngân sách của thành phố nên bằng mặt bằng chung của cả nước hay chi ngân sách so với GRDP của TPHCM cần được nâng ngay lên mức khoảng 10% GRDP, tương đương với Hà Nội hiện nay.
Tóm lại, tầm nhìn xây dựng TPHCM thành siêu đô thị quốc tế trong khu vực Đông Nam Á là cần thiết và phù hợp với bối cảnh hiện tại. Tuy nhiên, việc xác định đúng vị trí và có những bước đi thích hợp mang tính chiến lược là hết sức cần thiết. Trong đó, việc dành đủ nguồn lực cho thành phố là một hành động thiết thực để hiện thực hóa tầm nhìn vươn mình của đất nước.
Huỳnh Thế Du - Huỳnh Tuấn Kiệt
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/xay-dung-vi-the-cua-tphcm/