Bác sĩ Trần Thành Vinh - Khoa Sinh hóa, Bệnh viện Chợ Rẫy - cho biết hiện nay có thể thực hiện xét nghiệm dấu ấn sinh học (chỉ số đo lường mức độ) để xác định tình trạng tổn thương não.
Xét nghiệm dấu ấn sinh học để xác định mức độ chấn thương sọ não - Ảnh minh họa
Nghiên cứu về dấu ấn sinh học trong chấn thương sọ não cho thấy, có nhiều dấu ấn sinh học khác nhau được phóng thích vào hệ tuần hoàn trong chấn thương sọ não. Các dấu ấn sinh học có thể phân loại thành các dấu ấn cấp tính, bán cấp tính và mạn tính. Trong các dấu ấn sinh học này, GFAP và UCH-L1 có nhiều bằng chứng nhất.
Trong nhiều nghiên cứu khác nhau cho thấy nồng độ GFAP lẫn UCH-L1 tăng cao sau biến cố chấn thương sọ não, và có vẻ GFAP ưu việt hơn UCH-L1 trong phát hiện những tổn thương nội sọ.
Ngoài ra, trong 2 nghiên cứu lớn, GFAP giúp phân biệt những bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ với nhóm chứng không bệnh, cũng như phân biệt được giữa nhóm chấn thương sọ não nhẹ, trung bình và bị chấn thương nhưng không có chấn thương sọ não.
“Đặc điểm này đã khởi đầu nghiên cứu bản lề ALERT-TBI và đã giúp FDA phê duyệt xét nghiệm dấu ấn sinh học đầu tiên trong chấn thương sọ não nhằm hạn chế chụp CT sọ não”, bác sĩ Vinh cho biết thêm.
Ngoài GFAP và UCH-L1 thì S100B cũng là một dấu ấn sinh học đã được nghiên cứu nhiều trong đánh giá chấn thương sọ não nhẹ. Tuy nhiên, vai trò của của S100B bị hạn chế rất nhiều bởi sự không đặc biệt đối với não và thời gian sử dụng chỉ trong vòng 3 đến 6 giờ sau chấn thương sọ não.
Một số dấu ấn sinh học mạn tính sau chấn thương sọ não có thể sử dụng là Tau và NfL, nhưng vai trò của chúng vẫn chưa rõ, và các giá trị chính là để tiên lượng về mặt chức năng và đánh giá nguy cơ thoái hóa thần kinh sau đó.
Nhiều nghiên cứu đánh giá cơ chế xuất hiện của các dấu ấn sinh học này trong hệ tuần hoàn. Hai giả thuyết được đề ra là sự lỏng lẻo của hàng rào máu não sau chấn thương và sự dẫn các chất qua con đường glymphatic.
Theo các chuyên gia y tế, từ trước đến nay để đánh giá tổn thương trong chấn thương sọ não nhằm có biện pháp can thiệp thích hợp, bác sĩ chỉ định chụp CT sọ não. Tuy phương pháp này hiệu quả trong phát hiện các trường hợp chấn thương cần theo dõi sát, hoặc can thiệp ngoại khoa, nhưng việc sử dụng rộng rãi CT sọ bị đặt ra nhiều nghi ngờ, do nhiều tác dụng phụ đáng kể của phơi nhiễm của tia phóng xạ, sử dụng tài nguyên của khoa cấp cứu, nhất là tốn nhiều chi phí một cách không cần thiết.
Theo bác sĩ Trần Thành Vinh, tổn thương sọ não là một trong những chấn thương nặng nề nhất, ảnh hưởng khoảng 74 triệu người dân trên thế giới mỗi năm, dẫn đến tử vong, tàn phế và gây ra gánh nặng đối với người bệnh và xã hội.
Những bệnh nhân chấn thương sọ não bị giảm đáng kể sức khỏe về mặt thể chất lẫn tinh thần. Điều này được thể hiện qua những bệnh nhân bị liệt bán phần do chấn thương sọ não khiến họ giảm khả năng vận động, thay đổi hành vi và các cảm xúc, hoặc những vấn đề liên quan đến tập trung hay phối hợp giữa não bộ và cơ thể. Những bệnh mắc lâu dài do chấn thương sọ não dẫn tới giảm khả năng làm việc, giảm thu nhập, hậu quả là giảm kinh tế của người bệnh và gia đình.
Hồ Quang