Ông Đoàn Văn Hà, cư trú tại xã Vĩnh Lộc, TPHCM làm hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (nhà) tại mảnh đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2002.
Trên phần đất này, gia đình ông tự ý xây nhà vào năm 2002, nhưng không có quyết định xử phạt nào, không có biên bản vi phạm.
Ông băn khoăn, liệu khi làm hồ sơ xin công nhận quyền sở hữu nhà, có phải chịu xử phạt vì “tự ý chuyển mục đích sử dụng đất” theo quy định tại Khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai hay không? Nếu có, xử phạt theo quy định nào, cơ quan nào xử phạt, thời điểm tính thu lợi bất hợp pháp, giá đất tính theo thời điểm nào?
Ảnh minh họa: Thạch Thảo
Về trường hợp của ông Đoàn Văn Hà, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có ý kiến như sau:
Về hành vi tự ý chuyển mục đích sử dụng đất: Căn cứ theo khoản 3 Điều 139 của Luật Đất đai, trường hợp người sử dụng đất tự ý sử dụng đất không đúng mục đích mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, được xác định là hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
Trường hợp gia đình ông xây dựng nhà ở từ năm 2002 trên phần đất không phải là đất ở (nếu có), và chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở, thì hành vi này bị xem là sử dụng đất sai mục đích.
Hành vi sử dụng đất sai mục đích nêu trên thuộc đối tượng xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 123/2024 của Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính, thời hiệu xử phạt đối với hành vi sử dụng đất sai mục đích là 2 năm, kể từ thời điểm hành vi vi phạm được phát hiện hoặc chấm dứt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu hành vi vẫn đang tiếp diễn, thì thời hiệu tính từ thời điểm phát hiện vi phạm.
Do đó, việc có bị xử phạt hay không còn tùy thuộc vào việc cơ quan có thẩm quyền đánh giá thời hiệu, tính chất hành vi và hồ sơ liên quan của gia đình ông.
Vũ Điệp