Xin kháng nghị giám đốc thẩm vì 'có khả năng tranh chấp nhầm đất'

Xin kháng nghị giám đốc thẩm vì 'có khả năng tranh chấp nhầm đất'
8 giờ trướcBài gốc
Cho rằng vợ chồng mình đã mua bán đất ngay tình nhưng vẫn bị tòa án hai cấp tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng, vợ chồng ông Trương Cả đã làm đơn gửi VKSND Tối cao đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hai bản án và đang chờ phản hồi từ cơ quan này.
Tờ giấy viết tay và hợp đồng công chứng
Theo hồ sơ, năm 2017, bà N tặng cho con trai là ông S thửa đất ở huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu rộng hơn 3.200 m².
Ngày 14-3-2019, ông S chuyển nhượng thửa đất này cho vợ chồng ông Trương Cả với giá 870 triệu đồng; hợp đồng chuyển nhượng được công chứng.
Ngày 2-5-2019, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu điều chỉnh biến động trong giấy chứng nhận sang tên vợ chồng ông Cả.
Ông Trương Cả tại thửa đất đã mua từ ông S, cho rằng họ mua ngay tình nên cần được bảo vệ. Ảnh: YC
Sau khi nhận bàn giao đất, vợ chồng ông Cả trực tiếp sử dụng cho đến tháng 6-2019 thì ông D khởi kiện bà N tranh chấp thửa đất nêu trên.
Ông D cho rằng đã mua của bà N từ năm 2001 với giá hơn 12 triệu đồng bằng giấy viết tay. Vợ chồng ông Cả được tòa triệu tập tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người liên quan.
Lập luận của hai cấp tòa
Xử sơ thẩm tháng 7-2022, TAND huyện Xuyên Mộc nhận định rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông D và bà N chưa được công chứng, chứng thực; đồng thời chưa được đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và vào sổ địa chính; do đó hợp đồng chưa có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, thực tế sau khi giao kết hợp đồng thì các bên đã thực hiện và hoàn thành xong nghĩa vụ tài chính cũng như việc bàn giao đất. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên tuy có vi phạm quy định về mặt hình thức (bắt buộc công chứng, chứng thực) nhưng không bị vô hiệu. Vì vậy cần công nhận hiệu lực hợp đồng giữa các bên.
Còn hợp đồng tặng cho giữa bà N và ông S về hình thức và trình tự ký kết hợp đồng là đúng trình tự và thủ tục quy định nhưng việc tặng cho này được thực hiện sau khi bà N đã chuyển nhượng hết diện tích cho vợ chồng ông D…
Theo HĐXX, khi ông S đưa bà N đi làm thủ tục tặng cho, ông S không thông báo cho ai trong gia đình của bà N. Khi mượn giấy tờ từ một người cháu của bà N, ông S cũng không nói là mượn để đi làm thủ tục tặng cho đất.
Hơn nữa, do có căn cứ công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa bà N và vợ chồng ông D nên có căn cứ tuyên bố hợp đồng tặng cho giữa mẹ con bà N và ông S vô hiệu.
Về hợp đồng giữa ông S và vợ chồng ông Cả, HĐXX cho rằng hợp đồng thực hiện đúng trình tự, thủ tục, nhưng do việc tặng cho trước đó giữa ông S và bà N bị vô hiệu nên kéo theo hợp đồng giữa ông S và vợ chồng ông Cả cũng bị vô hiệu.
Từ đó, HĐXX sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông D và bà N; tuyên bố hợp đồng tặng cho giữa bà N và ông S vô hiệu; tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông Cả với ông S vô hiệu.
HĐXX yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho ông S (đã được điều chỉnh biến động sang tên cho vợ chồng ông Cả).
Không đồng ý, vợ chồng ông Cả kháng cáo. Xử phúc thẩm tháng 7-2023, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho rằng vào thời điểm bà N ký hợp đồng tặng cho ông S thì không có chứng cứ nào xác định bà N mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên về mặt pháp lý thì bà N thực hiện các giao dịch dân sự vẫn hợp pháp.
Tuy nhiên, khi ông S mượn các giấy tờ của bà N (cháu ngoại giữ) không nói đi ký hợp đồng tặng cho ông S đất. Hành vi của ông S có dấu hiệu gian dối trong việc đưa bà N đi ký hợp đồng tặng cho. Vì vậy, tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà N và ông S vô hiệu là phù hợp với Điều 127 BLDS.
Cạnh đó, vào thời điểm ông S chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Cả thì trên đất chuyển nhượng có cây tràm chưa đến tuổi thu hoạch nhưng ông Cả yêu cầu ông S phải chặt bỏ và ông Cả còn hỏi trụ cổng và hàng rào trên đất do ai xây dựng.
HĐXX phúc thẩm cho rằng điều này chứng tỏ ông Cả biết đất mà ông Cả nhận chuyển nhượng không phải do ông S sử dụng mà đang do người khác sử dụng nhưng ông Cả không làm rõ ai đang sử dụng đất để xem đất có tranh chấp hay không rồi mới nhận chuyển nhượng.
Vì vậy, HĐXX phúc thẩm cho rằng việc vợ chồng ông Cả nhận chuyển nhượng đất từ ông S là không ngay tình nên phán quyết của tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông Trương Cả và ông S vô hiệu là có căn cứ.
Từ đó, HĐXX bác kháng cáo của vợ chồng ông Cả.
Tờ giấy bán đất viết tay giữa bà N và ông D. Ảnh: YC
Vợ chồng ông Cả đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Không đồng ý với bản án sơ và phúc thẩm, ông Cả đã làm đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm gửi VKSND Tối cao.
Ông Cả nêu trong đơn rằng khi ông nhận chuyển nhượng thì đất đứng tên ông S và ông S đang thế chấp tại Quỹ tín dụng để vay tiền; đất không có tranh chấp. Việc chuyển đất giữa vợ chồng ông với ông S đã hoàn tất, vợ chồng ông đã sang tên trước bạ xong, đã nhận bàn giao đất. Tất cả đều được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Còn hợp đồng trước đó giữa ông S và bà N có hợp pháp hay không ông không thể biết.
Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 quy định: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Vì vậy, pháp luật phải bảo vệ quyền lợi cho ông vì ông là người mua ngay tình.
Ông Cả cũng cho rằng việc tòa nhận định ông mua bán không ngay tình với lập luận trên đất chuyển nhượng có cây tràm và hàng rào trên đất nhưng ông không làm rõ ai đang sử dụng để xem đất có tranh chấp hay không là hết sức vô lý. Bởi, tại thời điểm nhận chuyển nhượng ông S nói cây tràm này là của ông, ông S có yêu cầu để lại cây tràm khi nào vợ chồng ông sử dụng đất thì chặt nhưng vợ chồng ông Cả không đồng ý nên ông S đã cho chặt tràm và bàn giao đất cho vợ chồng ông Cả.
Tại thời điểm bà N ký bán cho ông D, thửa đất tranh chấp đã có giấy chứng nhận nên giấy bán đất viết tay này đã vi phạm về hình thức. Giấy bán đất viết hai màu mực, số liệu bị sửa chữa không chính xác, dấu lăn tay và chữ ký không xác định đúng của bà N và con gái bà nhưng không được giám định. Về nội dung thì không có căn cứ khẳng định thửa đất thỏa thuận trong giấy bán đất là thửa đất tranh chấp hiện nay.
Cụ thể, kích thước thửa đất bị sai lệch; tổng diện tích không đúng với diện tích tranh chấp; bản vẽ kèm theo ghi tờ bản đồ số không đúng; thời điểm đó con gái bà N ghi “Dám hộ” của bà N là không phù hợp vì năm 2001, bà N hoàn toàn tỉnh táo minh mẫn. Mãi đến tháng 8-2019, con gái bà N mới lập thủ tục yêu cầu tuyên bố bà N mất năng lực hành vi dân sự...
Cạnh đó, thửa đất ông D mua của bà N diện tích 3.072 m2 trong đó có 100 m2 thổ cư. Tuy nhiên, theo giấy chứng nhận của ông S thì hoàn toàn là đất trồng cây lâu năm. Thửa đất ông D mua có hình chữ nhật còn thửa đất ông Cả mua hình chữ L.
Ngoài ra, theo ông Cả, tờ giấy bán đất không thể xác định phần đất ghi nhận ở trên ông D chuyển nhượng của ai, thửa bao nhiêu, tờ bản đồ số mấy, diện tích là bao nhiêu, loại đất gì, ai là người chuyển nhượng và ai là người nhận chuyển nhượng....
Ông D không có giấy tờ chứng minh việc giao tiền, nhận đất; trong khi ông Cả đưa ra đầy đủ bằng chứng cùng với bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất có chữ ký của các chủ sử dụng đất liền kề và xác nhận của cán bộ đo đạc…
YẾN CHÂU
Nguồn PLO : https://plo.vn/xin-khang-nghi-giam-doc-tham-vi-co-kha-nang-tranh-chap-nham-dat-post852914.html