Xu hướng bảo hộ mậu dịch - Thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam

Xu hướng bảo hộ mậu dịch - Thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
5 giờ trướcBài gốc
TÓM TẮT:
Chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước với sản phẩm cùng loại được nhập khẩu từ đối thủ cạnh tranh nước ngoài với mức giá thấp hơn. Bảo hộ mậu dịch đang được phần lớn các quốc gia trên thế giới thực hiện sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Bài viết đã trình bày cơ sở lý luận về bảo hộ mậu dịch, phân tích thực trạng tác động của bảo hộ mậu dịch đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam hiện nay, đánh giá các thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam.
Từ khóa: bảo hộ mậu dịch, xuất khẩu hàng hóa, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại tăng trưởng cao cho thương mại quốc tế đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế cho nhiều quốc gia trên thế giới. Trong thời gian gần đây, trên thế giới đã xuất hiện một xu hướng đối lập với tự do hóa thương mại chính là chủ nghĩa bảo hộ. Một số biện pháp bảo hộ mậu dịch kiểu mới khác cũng được các nước phát triển xây dựng để hạn chế xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục duy trì mức tăng trưởng tích cực đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước (Tổng cục Thống kê, 2025). Tuy nhiên, xu hướng ngày càng gia tăng các loại hình bảo hộ mậu dịch kiểu mới, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực hơn là tích cực cho thế giới và các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo thống kê của VCCI (2024), tính đến hết năm 2024, đã có 270 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 25 thị trường và vùng lãnh thổ điều tra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù, Việt Nam đã, đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề trong tranh chấp thương mại, nhưng các nước phát triển ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và đổi mới cơ cấu kinh tế, Việt Nam cần có các giải pháp thích ứng.
2. Cơ sở lý luận
Bảo hộ mậu dịch hay bảo hộ thương mại là thuật ngữ kinh tế học, là tổng hợp những chính sách thương mại của Chính phủ nhằm hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài trong một ngành cụ thể bằng các biện pháp như tăng giá sản phẩm nhập khẩu, giảm chi phí cho các nhà sản xuất trong nước và hạn chế các nhà sản xuất nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước (Abboushi, 2010). Chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước với sản phẩm cùng loại được nhập khẩu từ đối thủ cạnh tranh nước ngoài với mức giá thấp hơn. (Nguyễn Mại, 2018).
Trong nhiều thập kỷ qua, các biện pháp bảo hộ mậu dịch truyền thống cơ bản bao gồm thuế quan và hạn nghạch nhập khẩu, thường được thực hiện thông qua hoạt động lập pháp hoặc các kênh hành chính có tính minh bạch cao (Gandolfo, 2014). Xu hướng bảo hộ mậu dịch kiểu mới dựa trên các rào cản phi thuế quan xuất hiện. Theo Gandolfo (2014), Gunnella và Quaglietti (2019), bảo hộ mậu dịch kiểu mới có thể cạnh tranh bí mật, tập trung vào các lĩnh vực từ lâu đã được bảo vệ như: dệt may, quần áo, giày dép, sắt, thép, điện tử tiêu dùng và nông nghiệp. Một số công cụ bảo hộ mậu dịch mới đang được áp dụng phổ biến gồm:
- Trợ cấp công nghiệp: bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nhập khẩu. Trợ cấp xuất khẩu là những khoản hỗ trợ của Chính phủ (hoặc cơ quan công cộng) cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, có tác động làm tăng khả năng xuất khẩu của sản phẩm. Trợ cấp nhập khẩu thực ra là một kiểu trợ cấp sản xuất. Hiệu quả của trợ cấp này là đối với bất kì đầu ra nào, giá mà nhà sản xuất nhận được lớn hơn giá mà người tiêu dùng phải trả nhờ số tiền trợ cấp. Do đó, trợ cấp sản xuất được xếp hạng trên mức thuế quan (Gandolfo, 2014).
- Chống bán phá giá: Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu (VCCI, 2008). Chống bán phá giá là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (Theo khoản 1 Điều 77 Luật Quản lý ngoại thương, 2017). Việc điều tra chống bán phá giá với các cáo buộc và áp thuế nhập khẩu cao hơn có chủ đích có thể giúp cho các nhà sản xuất ở một quốc gia nào đó chống lại các đối tác thương mại bị buộc tội là bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất.
- Các hàng rào kĩ thuật: Hàng rào kĩ thuật trong bảo hộ thương mại kiểu mới gồm nâng cao một số tiêu chuẩn, yêu cầu khắt khe hơn đối với chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ và sản phẩm liên quan đến sức khỏe. Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất lượng của sản phẩm.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là các thỏa thuận do chính phủ hoặc ngành công nghiệp của một quốc gia xuất khẩu thực hiện để tự nguyện hạn chế xuất khẩu nhằm tránh việc áp đặt các hạn chế bắt buộc của quốc gia nhập khẩu (ASEAN Trade Repository, 2024). Thực chất đây là những cuộc thương lượng mậu dịch giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong nước. Hình thức này được áp dụng cho các quốc gia có khối lượng xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó.
- Bảo hộ môi trường: là chính sách thương mại của các nước nhập khẩu áp dụng đối với các nước xuất khẩu gây ra tình trạng ô nhiễm khi sản xuất sản phẩm. Các nước nhập khẩu cho rằng môi trường của nước sản xuất ra hàng hóa và tiêu dùng phải được bảo vệ khỏi sự hủy hoại môi trường và nguồn tài nguyên do chính việc sản xuất hay tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu (Levinson, 2017).
- Hội nhập thương mại: gần đây cũng nổi lên trở thành một biện pháp bảo hộ thương mại kiểu mới. Các hiệp định thương mại khu vực cũng là một trong những biện pháp giúp các quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ trong các mối quan hệ thương mại khu vực (Štěrbová, 2008). Tại các thị trường mục tiêu, các đối tác công nghiệp trong khu vực được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh từ các quốc gia thứ ba. Tuy nhiên, việc áp dụng các chính sách thương mại bảo hộ bởi một nhóm khu vực có thể có tác động tiêu cực đến quan hệ thương mại quốc tế và dẫn đến chiến tranh thương mại (Abida, 2013).
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp thu thập tài liệu từ nguồn tài liệu thứ cấp như tạp chí kinh tế, báo cáo chuyên đề khoa học, tài liệu chuyên ngành, hồ sơ lưu trữ về chủ đề liên quan đến bảo hộ mậu dịch và xuất khẩu của Việt Nam. Các dữ liệu thứ cấp sau khi thu thập sẽ được tổng hợp làm cơ sở lý luận về bảo hộ mậu dịch kiểu mới, cũng như tác động đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam.
4. Thực trạng tác động của bảo hộ mậu dịch đối với xuất khẩu Việt Nam
Chủ trương của Việt Nam là lấy hội nhập kinh tế làm trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế. Trên cơ sở đường lối chỉ đạo đó, đến thời điểm hiện nay (tháng 12/2024), Việt Nam đã tham gia ký kết, 17 hiệp định FTA thực thi và đang đàm phán 02 hiệp định FTA (VCCI, 2024).
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2024 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro, bất ổn. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước. Trong đó, có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0%). Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Mỹ, châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ vẫn là đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với các mặt hàng như điện tử, dệt may, giày dép, và nông sản (Tổng cục thống kê, 2024).
Theo thống kê của VCCI (2024), tính đến hết năm 2024, đã có 270 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 25 thị trường và vùng lãnh thổ điều tra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là các vụ điều tra chống bán phá giá (148 vụ việc), tiếp đó là các vụ việc tự vệ (54 vụ việc), chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (38 vụ việc) và chống trợ cấp (30 vụ việc). Theo Cục Phòng vệ thương mại, hiện nay xu hướng điều tra phòng vệ thương mại từ các thị trường ngày càng khắt khe hơn; đồng thời yêu cầu cao hơn đối với Chính phủ, doanh nghiệp bị điều tra (thời hạn trả lời, yêu cầu bổ sung nhiều thông tin, khó xin gia hạn...).
Theo Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), Việt Nam đối phó với tổng 27 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ nước ngoài - nhiều nhất từ trước đến nay, chỉ sau năm 2020 (với 39 vụ). Trong đó, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Canada, Indonesia là các thị trường có xu hướng điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất đối với Việt Nam. Đặc biệt, Hoa Kỳ chiếm gần 50% tổng số vụ việc đã khởi xướng điều tra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Hơn nữa, phạm vi sản phẩm bị điều tra ngày càng đa dạng, không giới hạn ở các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như các sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu cao như pin mặt trời (4,2 tỷ USD), tôm (800 triệu USD), thép chống ăn mòn (242 triệu USD) đến các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp hơn như khay đúc bằng sợi (50 triệu USD), đĩa giấy (9 triệu USD)…, mà mở rộng với những sản phẩm có giá trị và lượng xuất khẩu trung bình và nhỏ như máy cắt cỏ, mật ong, đĩa giấy, ghim dập… Cục Phòng vệ thương mại nhận định, năm 2024, các nước trên thế giới có xu hướng điều tra kép chống bán phá giá/chống trợ cấp. Đối với Việt Nam, ghi nhận tổng số 5 vụ việc kép đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, điều tra chống trợ cấp lên tới 6 vụ việc trong năm 2024 (Thy Thảo, 2024).
Mặc dù Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý khá hoàn chỉnh để thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại phù hợp với các quy định của WTO, song hầu hết doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nắm được hết các quy định và sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, khi đối diện với các vụ kiện quốc tế, doanh nghiệp lúng túng không biết đối phó như thế nào, hoặc phải chi phí theo kiện rất tốn kém, hoặc thua kiện và mất trắng thị trường do bị áp thuế cao và không thể cạnh tranh được. Dự báo, việc gia tăng các rào cản về thương mại sẽ tác động không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ nhất là những rào cản từ các biện pháp bảo hộ thương mại ngày càng tăng của các cường quốc trên thế giới với những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về kiểm dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm, bao bì đóng gói, các công cụ chống bán phá giá, trợ cấp được sử dụng nhiều và thường xuyên hơn. Những mặt hàng ở Việt Nam có lợi thế sản xuất hơn sẽ khó đến được những nơi không có lợi thế sản xuất vì rào cản thương mại. Những nơi được bảo hộ sẽ phải chia sẻ nguồn lực để sản xuất những mặt hàng không có lợi thế dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ hai là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đầu tư đáng kể nguồn nhân lực, thời gian và kinh phí cho việc tham gia giải quyết toàn bộ vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp. Một số biện pháp phòng vệ thương mại kéo dài hàng chục năm, kéo theo chi phí theo đuổi vụ việc tốn kém. Cho đến nay, không có thống kê đầy đủ nào về những thiệt hại doanh nghiệp Việt Nam phải chịu do những vụ kiện gây ra. Tuy nhiên, để theo kiện, doanh nghiệp buộc phải bỏ ra các chi phí vật chất và nhân lực rất lớn phục vụ các yêu cầu tố tụng liên quan như: thuê luật sư tư vấn, trả lời Bảng câu hỏi điều tra, tham gia các phiên điều trần... Doanh nghiệp cũng như Hiệp hội nếu chưa có hiểu biết đầy đủ cũng như sẵn sàng những điều kiện liên quan sẽ dẫn đến những phương án đối phó chậm chạp và thiếu chuyên nghiệp. Để giải quyết hiệu quả, vụ kiện cần được tập trung xử lý với sự hỗ trợ hợp tác từ nhiều phía, đặc biệt là các đơn vị liên quan (Nguyễn Hoàng, 2020).
Thứ ba, các doanh nghiệp trong nước chưa chủ động trong việc nắm bắt pháp luật về phòng vệ thương mại nhằm áp dụng trong trường hợp cần thiết bảo vệ sản xuất trong nước. Hệ thống cảnh báo sớm đã được vận hành ở Việt Nam trong một thời gian dài, tuy nhiên cơ sở dữ liệu, hệ thống hạ tầng, công nghệ thông tin... chưa đầy đủ nên chưa hiệu quả.
5. Kết luận và khuyến nghị thúc đầy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch hiện nay là một xu thế mới trên thế giới tồn tại song song với tự do hóa thương mại. Bảo hộ mậu dịch đang được phần lớn các quốc gia trên thế giới thực hiện sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cần thích ứng và tìm ra hướng đi phù hợp ứng phó để phát triển xuất khẩu hàng hóa trong mỗi thời kỳ.
a. Đối với Chính phủ Việt Nam
- Tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới để tiếp thu kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của những quốc gia phát triển.
- Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước nhằm giúp doanh nghiệp chủ động trước xu hướng bảo hộ thương mại của các nước nhập khẩu. Xây dựng chương trình xúc tiến xuất khẩu hàng hóa đối với từng ngành hàng trong bối cảnh bảo hộ thương mại hiện nay, thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các nước đã ký kết FTA.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các thị trường nhập khẩu hàng hóa tiềm năng phục vụ cho việc xuất khẩu hàng hóa, có sự đánh giá quy định pháp luật, hỗ trợ thủ tục cho các doanh nghiệp, thông tin kịp thời đến các doanh nghiệp.
- Tăng cường kiểm soát chất lượng, xuất xứ, chống gian lận thương mại và có chế tài nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu vi phạm để đảm bảo uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp có hành vi lẩn tránh thương mại.
- Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình hỗ trợ tài chính, bảo hiểm xuất khẩu cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phát huy vai trò của các Hiệp hội trong việc góp phần thúc đẩy phát triển xuất khẩu. Hiệp hội cũng cần đẩy mạnh các hoạt động tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư theo thị trường, ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
b. Đối với doanh nghiệp
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần phải chủ động thực hiện biện pháp điều chỉnh cho phù hợp với các tiêu chuẩn do các nước nhập khẩu đặt ra như: đổi mới công nghệ sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, xác định cơ hội thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường hỗ trợ nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật hợp lý.
- Xây dựng chiến lược xúc tiến thương mại của từng doanh nghiệp, thúc đẩy quảng bá thương hiệu, sản phẩm của mình trên thị trường nước ngoài. Có sự chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung từ thị trường nước ngoài; phải áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế trong việc sản xuất, nuôi trồng hàng hóa của mình để đảm bảo đủ tiêu chuẩn bán ra thị trường khó tính ở nước ngoài.
- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực thích ứng với điều kiện phát triển kinh tế trong bối cảnh mới. Cần tăng cường năng lực quản trị kinh doanh và kiến thức pháp lý của người quản lý doanh nghiệp, hình thành thói quen sử dụng tư vấn pháp luật hoặc nghiên cứu pháp luật trước khi đưa ra những quyết sách quan trọng để tránh những vụ kiện tụng vì thiếu hiểu biết. Cần chú ý đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, kỹ năng đàm phán, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ am hiểu pháp luật quốc tế, ngoại ngữ, tin học và nâng cao tay nghề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Nguyễn Hoàng (2020), Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam, hội thảo Khoa học quốc tế: Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại, Trường Đại học Thương mại.
Nguyễn Mại (2018), Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch - Vấn đề của Việt Nam, Retrieved from http://vietnamfinance.vn/chu-nghia-bao-ho-mau-dich-van-de-cua-viet-nam 20180504224208703.htm
Thy Thảo (2024), Năm 2024, Việt Nam đối diện 27 vụ điều tra phòng vệ thương mại từ nước ngoài, Tạp chí Công Thương, truy cập tại https://tapchicongthuong.vn/nam-2024-viet-nam-doi-dien-27-vu-dieu-tra-phong-ve-thuong-mai-tu-nuoc-ngoai-131256.htm
Tổng cục Thống kê (2025), Bức tranh xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2024 - Phục hồi, phát triển và những kỷ lục mới, truy cập tại < https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/buc-tranh-xuat-nhap-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-nam-2024-phuc-hoi-phat-trien-va-nhung-ky-luc-moi/>
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI (2008), Kiện chống bán phá giá, < https://trungtamwto.vn/upload/files/wto/4-cac-hiep-dinh-co-ban/1-5_banphagia.pdf>
VCCI (2024), Phòng vệ thương mại, truy cập tại < https://chongbanphagia.vn/267-vu-viec-dieu-tra-phong-ve-thuong-mai-doi-voi-hang-xuat-khau-cua-viet-nam-n28685.html>
Abboushi Suhail (2010), Trade protectionism: Reasons and outcomes, Competitiveness Review, Vol. 20 https://doi.org/10.1108/10595421011080760.
Abida M. (2013), The Regional Integration Agreements: A New Face of Protectionism, International Journal of Economics and Finance, Vol 5, No 3.
ASEAN Trade Repository (2024), truy cập ngày 2/1/2025
Gandolfo, Giancarlo (2014), International Trade Theory and Policy, Springer.
Gunnella Vanessa, Quaglietti Lucia (2019), ‘The economic implications of rising protectionism: a euro area and global perspective’, ECB Economic Bulletin, Issue 3/2019.
Levinson, Arik (2017), Environmental protectionism: The case of CAFÉ. Economics Letters, Volume 160, November 2017, Pages 20-23.
Štěrbová L. (2008), Could Regional Trade Integration be a Building Block for Global Governance of Trade, Acta Oeconomica Pragensia, vol. 2008, issue 2, 23-36.
The rising trend of trade protectionism: Challenges for Vietnam’s export sector
Le Nguyen Dieu Anh
Thuongmai University
Abtract
Protectionism aims to shield domestic industries from lower-priced imported goods, posing significant challenges for export-driven economies like Vietnam. As protectionist policies are increasingly adopted worldwide, their impact on Vietnamese exports has become a critical concern. This study explores the theoretical foundations of protectionism, examines its effects on Vietnam’s export sector, and assesses the key challenges faced by Vietnamese exporters. Additionally, the study proposes strategic solutions and policy recommendations to enhance Vietnam’s export competitiveness in the face of rising global protectionism.
Keywords: protectionism, exports, Vietnam.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 6 tháng 2 năm 2025]
Tạp chí Công Thương
Nguồn Tạp chí Công thương : https://tapchicongthuong.vn/xu-huong-bao-ho-mau-dich-thach-thuc-doi-voi-xuat-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-139114.htm