Xử lý nợ xấu ngân hàng: Cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ

Xử lý nợ xấu ngân hàng: Cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ
20 giờ trướcBài gốc
Quy định này cũng tránh được việc tổ chức tín dụng lợi dụng hoạt động của công ty quản lý nợ để mua, bán nợ nhằm làm thay đổi số liệu, tình hình nợ xấu của tổ chức tín dụng.
Nỗ lực của nhà điều hành
Tổng nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm cả nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và nợ tiềm ẩn rủi ro, hiện đã vượt 1 triệu tỉ đồng và con số này vẫn đang tiếp tục tăng lên, dù tốc độ đã chậm lại so với giai đoạn 2023-2024. Như nhiều phân tích đã chỉ ra, “cục máu đông” nợ xấu này chính là một trong những điểm nghẽn cản trở mục tiêu giảm lãi suất cho vay trong nền kinh tế.
Tháng 5-2025, nghị trường Quốc hội nóng lên với đề xuất luật hóa một số nội dung quan trọng của Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD vào Luật các TCTD đang sửa đổi. Điều này được cho là sẽ tạo cơ sở pháp lý ổn định, lâu dài, giúp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn, đồng thời bảo vệ quyền lợi của TCTD, người gửi tiền và người vay. Khi việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn cũng giúp các TCTD giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro, từ đó tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay.
Những số liệu thống kê trước đây cho thấy hiệu quả mà các giải pháp trong Nghị quyết 42 mang lại. Cụ thể, lũy kế từ ngày 15-8-2017 đến 31-12-2023, trung bình mỗi tháng xử lý được 5.800 tỉ đồng nợ xấu, cao hơn 2,5 lần so với mức bình quân 2.280 tỉ đồng trước khi có Nghị quyết 42. Trong tổng số 443.800 tỉ đồng nợ xấu theo nghị quyết này, tỷ lệ khách hàng tự trả nợ và hình thức xử lý nợ thông qua bán, phát mại tài sản bảo đảm (TSBĐ) đều tăng cao, lần lượt chiếm 36,35% và 20,85%, tương đương 161.300 tỉ đồng và 92.500 tỉ đồng.
Việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào ngày 31-12-2023 đã tác động đáng kể đến việc xử lý, thu hồi nợ của các ngân hàng và tổ chức mua bán, xử lý nợ. Về cơ bản, dự thảo Luật các TCTD sửa đổi sẽ luật hóa ba nội dung quan trọng của Nghị quyết 42, bao gồm: quyền thu giữ TSBĐ; kê biên TSBĐ của bên phải thi hành án; hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự. Các quy định này phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm quyền tài sản và thực thi hợp đồng.
Cũng trong tháng 5-2025, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tiến hành lấy ý kiến góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18-5-2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC. Những thay đổi, bổ sung nhằm thống nhất, đồng bộ với Luật các TCTD năm 2024, các quy định pháp luật liên quan và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Một trong những tác động rõ nhất là mở rộng phạm vi hoạt động mua nợ xấu của VAMC, khi cho phép công ty này mua nợ theo giá thị trường phù hợp với quy định tại Luật các TCTD năm 2024. Ngoài ra, dự thảo nghị định này cũng bãi bỏ việc NHNN phê duyệt phương án mua nợ theo giá thị trường và phê duyệt phương án mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính cho VAMC, nhưng vẫn đảm bảo được vai trò quản lý, vai trò là cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại VAMC của NHNN.
Cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư quy định về hoạt động của công ty con, công ty liên kết của TCTD trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC), với những thay đổi phù hợp với tình hình thực tế hiện nay hơn. Một trong những bổ sung quan trọng nhất là điều 5 quy định về khoản nợ được xử lý trong hoạt động của các AMC. Hoạt động của TCTD hiện nay đa dạng hơn so với thời điểm ban hành Quyết định 1390/2002/QĐ-NHNN về tổ chức và hoạt động của các AMC. Do đó, việc tiếp nhận, xử lý các khoản nợ theo ủy quyền của AMC cần được mở rộng để đảm bảo có nguồn lực xử lý các khoản nợ xấu phát sinh trong hoạt động của TCTD.
Cụ thể, khoản nợ mà AMC thực hiện quản lý, khai thác theo ủy quyền là nợ xấu bao gồm cả nội bảng, ngoại bảng và việc xác định khoản nợ, nợ xấu nội bảng theo quy định tại Thông tư 31/2024/TT-NHNN. Đối với khoản nợ công ty AMC được mua, bán thì chỉ bao gồm các khoản nợ xấu nội bảng, ngoại bảng phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản trả thay cho bảo lãnh, khoản phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính. Việc xác định nợ xấu theo Thông tư 31/2024/TT-NHNN.
Theo nhà điều hành, việc quy định phạm vi khoản nợ được tiếp nhận, quản lý, xử lý theo ủy quyền; được mua, bán phải là... khoản nợ xấu phù hợp với mục tiêu chính của việc thành lập công ty quản lý nợ, giúp công ty quản lý nợ tập trung xử lý các khoản nợ xấu. Quy định này cũng tránh được việc TCTD lợi dụng hoạt động của công ty quản lý nợ để mua, bán nợ nhằm làm thay đổi số liệu, tình hình nợ xấu của TCTD.
Dù vậy, với thị trường mua bán nợ thứ cấp chưa phát triển, với VAMC và Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) vẫn là người mua duy nhất trong khi nguồn lực của các công ty này lại hạn chế, công tác xử lý nợ xấu của các TCTD cũng như các AMC thuộc TCTD vẫn còn lắm gian nan. Riêng trường hợp của VAMC, dù được phép mua nợ theo giá thị trường, nhưng việc này chỉ được thực hiện sau khi thuê định giá với các thủ tục phức tạp, nhiêu khê.
Một số hạn chế về sở hữu bất động sản của nhà đầu tư nước ngoài cũng khiến khó thu hút dòng tiền quốc tế tham gia vào thị trường mua bán nợ, xử lý các TSBĐ là bất động sản tại các ngân hàng. Về phần mình, các ngân hàng nhiều năm qua khi cho vay chỉ chăm chăm vào tài sản thế chấp là bất động sản, và trong một số giai đoạn giá các tài sản này lại bị định giá vượt xa giá trị thực theo độ nóng sốt của thị trường nhà đất, dù chính sách của các ngân hàng thường chỉ cho vay từ 70-80% giá trị định giá của tài sản thế chấp là nhà đất.
Hệ quả là khi thị trường bất động hạ nhiệt, thực tế đã chứng minh trong giai đoạn 2022-2024 vừa qua, nhiều tài sản là bất động sản được rao bán đã lâu nhưng vẫn không có người mua lại, các TCTD phải hạ giá sâu và chấp nhận khoản thu hồi thực tế thấp hơn giá trị sổ sách và dùng dự phòng để xử lý rủi ro. Trong một số trường hợp, các ngân hàng buộc phải chấp nhận tái cơ cấu nợ cho khách hàng để giữ khách hàng sống sót, đợi thị trường phục hồi.
Ngoài ra, để thúc đẩy tăng trưởng và mở rộng quy mô nhanh, mô hình phát triển của nhiều ngân hàng hiện nay đặt nặng KPI tăng trưởng cho vay cao hơn so với KPI thu nợ, tạo “thiên hướng tăng trưởng” bằng mọi giá khiến dư nợ mới tiếp tục phát sinh và kéo theo tiềm ẩn rủi ro, trong khi nợ xấu cũ vẫn chưa xử lý xong. Các tổ chức cũng thiếu chuyên gia xử lý nợ “đúng chuẩn” quốc tế, còn đội ngũ thu hồi nợ phần lớn kiêm nhiệm, ít kinh nghiệm tái cấu trúc doanh nghiệp để xử lý nợ.
Cuối cùng, trong quá trình xử lý một khoản nợ xấu mà khách hàng không hợp tác, biện pháp khởi kiện cũng không mang lại hiệu quả như mong muốn, khi các thủ tục tố tụng và thi hành án kéo dài. Phán quyết sơ thẩm của tòa án thường mất 1-2 năm, chờ đến bước thi hành án thì còn lâu hơn vì bị đơn thường kháng cáo. Tất cả những điều này khiến chi phí thu hồi cao, TSBĐ xuống giá trong thời gian chờ xử lý, kéo theo thiệt hại của ngân hàng.
Triệu Minh
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/xu-ly-no-xau-ngan-hang-can-them-nhieu-giai-phap-dong-bo/