Xứ Nghệ xưa kia vốn là vùng sinh sống của bộ lạc Việt Thường với trung tâm là quanh chân núi Hồng Lĩnh, cho tới thời Hùng Vương thì bộ Việt Thường là một trong 15 bộ lạc của nước Văn Lang cổ đại. Đến năm 1490, dưới triều vua Lê Thánh Tông, vùng đất này được gọi là xứ Nghệ An, một thời gian dài sau đến nhà Tây Sơn mới đổi thành Nghĩa An trấn.
Năm 1802, Vua Gia Long nhà Nguyễn, đặt làm Nghệ An trấn. Đến năm 1831, Vua Minh Mạng chia xứ Nghệ thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, sau đó sáp nhập gọi là An Tĩnh, rồi lại chia tách. Năm 1976, đất nước thống nhất, Nghệ An và Hà Tĩnh một lần nữa sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh, rồi lại chia tách thành Hà Tĩnh và Nghệ An vào năm 1991 cho tới nay.
Đền thờ Vua Quang Trung trên núi Quyết.
Chúng tôi được nhà thơ Nguyễn Văn Hùng và nhà lý luận phê bình Đinh Trí Dũng đưa đi thăm một số di tích, thắng cảnh xứ Nghệ. Theo hai anh, mặc dù trải qua nhiều lần tách nhập nhưng Nghệ An - Hà Tĩnh vẫn luôn là xứ Nghệ “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” chung một dòng lịch sử, nền tảng văn hóa, phong tục tập quán, cốt cách ứng xử.
Tuy nhiên cũng có một chút khác biệt giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Người Nghệ An mạnh mẽ, quyết đoán hơn nên đạt rất nhiều thành công trên hoạn lộ quan trường hoặc chính trường. Còn người Hà Tĩnh nhẹ nhàng, uyển chuyển hơn nên gặt hái nhiều thành tựu văn học nghệ thuật nổi trội, nhất là thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, sự khác biệt này không lớn, bởi có những người Nghệ An cũng thành công vang dội về văn hóa, ngược lại có những người Hà Tĩnh trở thành lãnh đạo cao cấp hàng đầu đất nước.
Đất phên dậu và đế đô Vạn An của Mai Hắc Đế
Từ thời châu Hoan, xứ Nghệ đã là đất phên dậu phòng thủ, chống chọi các cuộc xâm lăng từ các triều đình phong kiến phương Bắc và Chiêm Thành ở phía Nam lẫn giặc cướp biển. Khi đất nước mở cõi về phương Nam, xứ Nghệ vẫn là vùng đất trọng yếu cho các cuộc hội quân, chiêu binh, khởi chiến. Với thế đất hiểm yếu, xứ Nghệ cũng từng hai lần được chọn làm đế đô.
Đưa tôi sang Nam Đàn dâng hương đền thờ Mai Hắc Đế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Anh cho biết, tương truyền nhà vua tên thật là Mai Thúc Loan, còn gọi là Mai Huyền Thành quê làng Mai Phụ chuyên làm muối ven biển Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
Bấy giờ châu Hoan thường xuyên bị cướp biển quấy nhiễu và sự đô hộ tàn bạo sưu cao thuế nặng của nhà Đường. Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đứng lên phất cờ khởi nghĩa. Nhân dân khắp các châu Hoan, Diễn, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) hưởng ứng mạnh mẽ. Ông còn tìm cách liên kết với các nước trong khu vực để chống lại nhà Đường.
Mai Thúc Loan xưng đế và đóng đô ở thành Vạn An bên bờ sông Lam. Từ kinh đô Vạn An, Mai Hắc Đế tiến quân ra Bắc tấn công phủ thành Tống Bình (Hà Nội) làm cho quan đô hộ Quang Sở Khách phải bỏ chạy về nước. Đất nước được giải phóng, nhân dân khắp nơi càng nô nức đầu quân dưới cờ khởi nghĩa. Sau khi cắt cử người ở lại giữ thành Tống Bình, ông rút quân về lại thành Vạn An phát triển thêm lực lượng.
Vào thời điểm ấy, nhà Đường dưới thời Huyền Tông - Đường Minh Hoàng đang cực thịnh. Chúng không muốn từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Vua Đường đã cử tướng Dương Tư Húc, đem 10 vạn quân cùng quan đô hộ Quang Sở Khách trở sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế. Trải qua nhiều trận đánh từ sông Hồng vào sông Lam, vì chênh lệnh về binh lực nên nghĩa quân thất trận, thành Vạn An thất thủ. Mai Hắc Đế phải rút quân vào rừng sâu rồi bệnh mất. Con trai út của ông được tướng sĩ tôn lên ngôi là Mai Thiệu Đế nhưng chẳng bao lâu bị quân Đường sát hại năm 723.
Nghiên cứu về Kinh đô Vạn An, Giáo sư Trần Quốc Vượng trong bài viết "Mai Hắc Đế" cho biết: “Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét. Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào thiên nhiên. Bao quanh khu trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biểu Sơn (hình quả bầu), bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thủy bộ”.
Thành Vạn An là kinh đô đầu tiên đặt tại xứ Nghệ. Rất tiếc thành chỉ tồn tại trong gần một năm và bị tan vỡ theo cuộc khởi nghĩa thất bại của Mai Hắc Đế. Ghi nhớ công ơn Mai Hắc Đế và tướng sĩ, nhân dân đã lập đền thờ ông trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Đồng thời, tại địa phận thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An có khu di tích tưởng niệm ông.
Dang dở Phượng Hoàng Trung Đô của Hoàng đế Quang Trung
Hơn một ngàn năm sau thành Vạn An, một kinh thành khác được xây dựng ở xứ Nghệ, không chỉ là truyền thuyết mà thực chứng rõ ràng. Đó là Phượng Hoàng Trung Đô. Sử liệu cho biết, những lần ra Bắc tiêu diệt quân chúa Trịnh và đại phá quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đã có ý xây dựng kinh đô tại Nghệ An, quê hương của tổ tiên ông.
Vào ngày 1/10/1788, Hoàng đế Quang Trung đã ban chiếu gửi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp về việc xây dựng đế đô, trong đó có viết: “Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, quả cung từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Châu Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy”.
Được sự tham mưu của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Hoàng đế Quang Trung đã chọn đất hiểm yếu Yên Trường để xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô. Đây là vùng đất hội tụ cả long - ly - quy - phượng, nằm giữa núi Phượng Hoàng và núi Kỳ Lân (còn gọi là núi Cánh Phượng và núi Con Mèo). Phía trước thành có sông Cồn Mộc và sông Lam, còn phía bên là núi Quyết, được ví như hào và thành thiên nhiên che chắn, bảo vệ.
Theo các nhà khoa học, việc chọn xứ Nghệ xây dựng kinh đô đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Hoàng đế Quang Trung, vì nơi đây là khoảng giữa cách Thăng Long 300km và cách Phú Xuân hơn 300km, thuận tiện cho việc đi lại và quản lý đất nước.
Hoàng đế Quang Trung đã trực tiếp giao cho danh tướng Trần Quang Diệu, một người tin cẩn thân thiết đang là quan Trấn thủ Nghệ An, phối hợp cùng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp gấp rút xây dựng thành. Ngoài các vách núi làm thành lũy tự nhiên, Phượng Hoàng Trung Đô còn được xây đắp thêm 300m bờ thành nam, 450m bờ thành tây, với đầy đủ các công trình như thành nội, thành ngoại, cung điện, sân chầu.
Sách "Hoàng Lê nhất thống chí" đã viết: “Quang Trung liền sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu 3 tầng cùng 2 dãy hành lang để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ”.
Tiếc thay, khi sự nghiệp đang ở đỉnh cao thì Hoàng đế Quang Trung lâm trọng bệnh, thành Phượng Hoàng Trung Đô đang xây dang dở. Mùa thu năm 1792, biết mình không thể qua nổi, nhà vua cho triệu gấp Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về Phú Xuân bàn việc thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô và hợp sức giúp Thái tử giữ nước. Hoàng đế Quang Trung mất, triều đình tôn Quang Toản lên ngôi, triều đại Tây Sơn chỉ kéo dài thêm một thời gian ngắn thì sụp đổ trước sự phục thù của nhà Nguyễn. Từ đó, thành Phượng Hoàng Trung Đô dần bị hoang phế, trong khi Vua Gia Long lại cho xây một tòa thành khác ở Nghệ An nhưng không phải để làm kinh đô.
Phượng Hoàng Trung Đô hiện nay nằm ở địa phận phường Trung Đô, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Dấu tích tòa thành xưa còn lại khá mờ nhạt, chỉ với một vài đoạn tường thành, hào nước, nền móng một số công trình kiến trúc. Thắp hương tưởng nhớ tiền nhân, tôi đứng giữa đỉnh núi Dũng Quyết nhìn gió lộng mây bay mà ngẫm tiếc cho số mệnh Hoàng đế Quang Trung, tiếc cho Phượng Hoàng Trung Đô xứ Nghệ, mà cũng tiếc cho số phận dân tộc. Lịch sử không thể quay lại, nhưng nếu như Hoàng đế Quang Trung sống thêm vài mươi năm nữa thì chắc chắn nhiều điều kỳ diệu đặc biệt sẽ diễn ra.
Đặc biệt, xứ Nghệ là vùng “địa linh nhân kiệt” sản sinh, hội tụ nhiều hiền tài cho đất nước, trong đó có bốn Danh nhân Văn hóa Thế giới lần lượt được vinh danh là Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Hồ Xuân Hương, Lê Hữu Trác cùng nhiều nhân vật lẫy lừng lịch sử khác trên nhiều lĩnh vực: Mai Hắc Đế, Hồ Tông Thốc, Bùi Cầm Hổ, Sử Hy Nhan, Nguyễn Xí, Nguyễn Tuấn Thiện, Nguyễn Biểu, Nguyễn Huệ, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Nghiễm, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Phan Bội Châu, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Thị Minh Khai, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Lê Thước, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Phan Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Trung Thông…
Phan Hoàng