Đây là những thông tin được đưa ra tại cuộc họp về thực hiện và Kế hoạch triển khai các hoạt động hỗ trợ thích ứng Quy định chống phá rừng của EU (EUDR) đối với ngành hàng cà phê, cao su tại Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 26/6, tại Hà Nội.
Chỉ cần vài sai sót cũng có thể dẫn tới cảnh báo
Chia sẻ tại cuộc họp, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, ngành gỗ Việt Nam hoàn toàn tuân thủ và tích cực hưởng ứng Quy định EUDR.
Yếu tố cốt lõi để vận hành EUDR chính là dữ liệu đầy đủ và khả năng chia sẻ thông tin theo yêu cầu EU
Trong lĩnh vực truy xuất nguồn gốc, đặc biệt là yếu tố có phá rừng hay không, Việt Nam và Liên minh châu Âu đã ký kết Hiệp định Đối tác Tự nguyện VPA/FLEGT, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thực thi pháp luật lâm nghiệp.
Chính phủ Việt Nam cũng kiểm soát rất chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đây là một trong những lý do giúp Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có nguy cơ gây mất rừng thấp.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thực hiện truy xuất rõ ràng, giống như trường hợp "thẻ vàng IUU" trong ngành thủy sản, dù phần lớn làm tốt nhưng chỉ cần vài sai sót cũng có thể dẫn tới cảnh báo.
Theo các cơ quan chuyên ngành, nhiệm vụ quan trọng nhất từ nay đến cuối năm là hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp phục vụ EUDR. Đây không chỉ là dữ liệu phục vụ truy xuất sản phẩm mà là nền tảng thông tin quốc gia gồm ba cấu phần chính: cơ sở dữ liệu rừng (EUDR), dữ liệu vùng trồng và hệ thống truy xuất sản phẩm theo tọa độ đa giác.
Cụ thể, dữ liệu rừng ghi nhận ranh giới rừng tại hai thời điểm 31/12/2020 và thời điểm kiểm tra. Dữ liệu vùng trồng thu thập thông tin về vị trí vườn cây, nông hộ, sản lượng, loài cây trồng. Hệ thống truy xuất nguồn gốc sẽ kết nối từ vườn cây đến đại lý thu mua và doanh nghiệp, với các mẫu báo cáo đúng theo quy định của EU.
Về việc này, theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Việt Nam hiện được xếp vào nhóm “rủi ro thấp” theo phân loại của EC. Điều này giúp giảm tần suất kiểm tra lô hàng xuất khẩu xuống còn 1%, thay vì 3% như nhóm “rủi ro trung bình” hoặc 9% như nhóm 'rủi ro cao'. Tuy nhiên, phần quan trọng nhất hiện nay là dữ liệu ‘chạm đáy’, tức dữ liệu địa phương, nông hộ, thương lái, phải đủ để doanh nghiệp có thể khai báo hồ sơ truy xuất. Trong khi đó, yếu tố cốt lõi để vận hành EUDR chính là dữ liệu đầy đủ và khả năng chia sẻ thông tin theo yêu cầu EU.
Theo đó, dữ liệu phục vụ EUDR không chỉ là tài nguyên quản lý nhà nước, mà còn phải là công cụ để doanh nghiệp sử dụng trực tiếp. Việc quản lý và chia sẻ dữ liệu cần đồng bộ, minh bạch nhưng vẫn đảm bảo bảo mật thông tin. Vụ đề xuất tổ chức làm việc trực tiếp với các tỉnh sau khi sáp nhập vào tháng 7 tới, nhằm đảm bảo kết nối thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
Không để bất cứ lý do nào cản trở xuất khẩu
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung nhấn mạnh, từ nay đến đầu năm 2026, thời gian không còn nhiều, do đó cần chuyển từ giai đoạn thí điểm sang thực thi toàn diện. Ba nhóm hàng chủ lực gồm: cà phê, cao su, gỗ phải xuất khẩu thông suốt, không để bất kỳ lý do nào cản trở.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung chủ trì cuộc họp
Do đó, cần hoàn thiện hệ thống phần mềm và dữ liệu nền, trong đó có cả số liệu diện tích, bản đồ tọa độ, thông tin hộ trồng và thương lái, sản lượng, phục vụ truy xuất toàn trình.
Bên cạnh đó, tổ chức tập huấn, tuyên truyền sâu rộng tại các địa phương, đặc biệt là vùng trọng điểm cà phê và cao su. Việc triển khai cần linh hoạt, phù hợp với quá trình sáp nhập chính quyền cấp huyện và xã từ tháng 7/2025.
Đồng thời, tổng hợp đầy đủ số liệu liên quan đến cao su, nhất là nhóm tiểu điền, để xây dựng bộ dữ liệu nền cho hệ thống mới. Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cần làm đầu mối phối hợp với địa phương và doanh nghiệp để thúc đẩy liên kết chuỗi, hỗ trợ nông hộ.
Hiện IDH hiện là đơn vị tài trợ triển khai thí điểm hệ thống với diện tích 137.000 ha cà phê tại Tây Nguyên, hướng đến mở rộng lên 462.000 ha, tương đương 80% tổng diện tích vùng cà phê trọng điểm. Tuy nhiên, riêng với cao su, hiện chưa có nguồn tài trợ cho vùng tiểu điền. Do đó, ông Hoàng Trung giao Vụ Hợp tác Quốc tế cùng tổ chức IDH và các dự án liên quan thành lập tổ công tác chuyên trách về EUDR, vừa hỗ trợ kỹ thuật, vừa làm đầu mối đối thoại chính thức với EU để phản ánh đặc thù của chuỗi cung ứng phân tán.
“Đảm bảo rằng đến ngày 1/1/2026, việc xuất khẩu ba nhóm hàng chủ lực gồm cà phê, cao su và gỗ, sang EU phải diễn ra trơn tru, không bị gián đoạn. Tất cả điều kiện về truy xuất, dữ liệu, hồ sơ và kỹ thuật cần được hoàn thiện trước thời điểm này”, ông Hoàng Trung nói.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, mỗi năm ngành cao xuất khẩu đạt mức 7 – 8 tỷ USD. Thị trường EU tiếp tục giữ vai trò chiến lược, chiếm khoảng 7,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó 95% là từ nhóm sản phẩm cao su có giá trị gia tăng cao.Số liệu từ Cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho thấy, xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2025 ghi nhận mức tăng trưởng vượt trội tại 3 thị trường lớn thuộc EU. Trong đó, Đức là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam với 628 triệu USD, tăng tới 97% so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu cà phê sang Italia tăng 33,8% so với cùng kỳ năm trước, lên 307 triệu USD; xuất khẩu cà phê sang Tây Ban Nha tăng 51,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 292 triệu USD.