Không gian phát triển mở rộng
Trong bức tranh chuyển động ấy, cá tra trở thành ngành hàng có tốc độ thích ứng nhanh nhất, đang bước vào chu kỳ tăng trưởng mới với kỳ vọng dẫn dắt quốc gia trong chuỗi cung ứng cá thịt trắng toàn cầu.
Sáp nhập tạo nên một không gian kinh tế thống nhất, giải quyết "điểm nghẽn" nhiều năm của vùng là phân tán quản lý, đứt gãy chuỗi giá trị và chi phí logistics cao. Dòng chảy sông - biển - đảo nay hòa vào một trục phát triển chung, giúp ĐBSCL lần đầu tiên vận hành như một thể kinh tế liên vùng đúng nghĩa.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhận định: "Mô hình hai cấp làm giảm tầng nấc trung gian, tăng tốc độ xử lý trong quản lý vùng nuôi, cấp mã số, kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Khi không gian hành chính được thu gọn, chuỗi giá trị liên tỉnh liền mạch, tạo lợi thế quyết định cho thủy sản, nhất là cá tra".
Phi lê cá tra vẫn là mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
Thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cho thấy, lợi thế của từng địa phương nay bổ sung lẫn nhau. Nếu An Giang giữ vai trò trung tâm giống 3 cấp - nền móng chiến lược của ngành thì Đồng Tháp, Cần Thơ (với 35% thị phần cả nước) là "thủ phủ” chế biến sâu, hạt nhân logistics - thương mại - xuất khẩu.
Sự kết nối này giúp giảm mạnh chi phí vận chuyển trong bối cảnh cao tốc Bắc - Nam phía Tây, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng và các tuyến liên tỉnh dần hoàn thiện. Khi cảng Hòn Khoai đưa vào hoạt động, chuỗi logistics sông - biển - đảo sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh mà trước sáp nhập không tỉnh nào có được.
"Các chỉ dấu cho thấy năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của ngành cá tra ĐBSCL đang bước sang giai đoạn mới. Vùng nuôi hiện đạt 5.700ha mặt nước, cung ứng 1,4 - 1,6 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm. Toàn vùng có hơn 100 nhà máy chế biến đạt chuẩn quốc tế, giúp sản phẩm cá tra Việt Nam hiện diện tại hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đồng Tháp, Cần Thơ nắm giữ khoảng 35% thị phần cả nước, khẳng định vai trò trung tâm chế biến. Mục tiêu nâng tỷ lệ chế biến sâu lên 40% vào năm 2030 hoàn toàn khả thi khi chi phí logistics tiếp tục giảm nhờ cao tốc và cảng biển mới. Đây là nền tảng quan trọng để ĐBSCL củng cố và mở rộng vị thế trên thị trường thế giới", Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến chia sẻ.
TS Lê Quang Vinh (trường Chính trị Tôn Đức Thắng) phân tích: "Cá tra là ngành hàng có lợi thế cạnh tranh gần như tuyệt đối của ĐBSCL. Lợi thế này đến từ điều kiện tự nhiên, hệ thống kênh rạch và nguồn nước mà không vùng nào trong cả nước có được".
Toàn vùng hiện có 5.700ha mặt nước nuôi cá, cung ứng 1,4 - 1,6 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm, được chế biến tại hơn 100 nhà máy đạt chuẩn GlobalGAP, ASC, BAP, HACCP - con số khẳng định năng lực công nghiệp hóa và chuyển đổi số của ngành.
Hơn 2 thập niên qua, ĐBSCL đã hình thành các "vùng nuôi chuẩn quốc tế" từ An Giang, Đồng Tháp đến Cần Thơ. Ths. Vương Học Vinh, nguyên Giảng viên Khoa nông nghiệp Trường Đại học An Giang, người góp phần quan trọng cho cá tra, basa sinh sản nhân tạo đánh giá: "Không nơi nào có hệ sinh thái phù hợp cho nuôi cá tra như ĐBSCL. Không gian kinh tế mở rộng sau sáp nhập giúp ngành này phát huy trọn vẹn lợi thế vốn có”.
Song song với vùng nuôi, năng lực chế biến sâu tăng trưởng mạnh. Các doanh nghiệp như Nam Việt, Vĩnh Hoàn, IDI, CASEAMEX... đã chuyển trọng tâm sang sản phẩm giá trị gia tăng: collagen, gelatin, dầu ăn, snack da cá, thực phẩm tiện lợi - giúp con cá tra bước vào chuỗi giá trị toàn cầu với biên lợi nhuận cao hơn nhiều so với phi lê truyền thống.
Công nhân phân loại sản phẩm trước khi cấp đông
Nâng chất chuỗi sản xuất, chế biến
Ông Doãn Tới, Tổng Giám đốc Tập đoàn Nam Việt, khẳng định: "Cá tra hoàn toàn có thể chinh phục EU, Mỹ, Nhật Bản nếu tái cấu trúc theo hướng chế biến sâu và phát triển vùng nuôi chuẩn quốc tế. Không gian kinh tế liên hoàn giúp doanh nghiệp tổ chức chuỗi khép kín xuyên tỉnh, tối ưu chi phí và tăng sức cạnh tranh".
Sự thống nhất quản lý giúp mã số vùng nuôi, truy xuất nguồn gốc số hóa, kiểm soát giống - thức ăn - môi trường - dịch bệnh theo cùng một chuẩn, đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường cao cấp như Mỹ, EU, CPTPP. Mô hình kinh tế tuần hoàn cũng đang gia tăng giá trị. Phụ phẩm cá tra như mỡ, da, đầu sẽ tiếp tục trở thành nguyên liệu sản xuất dầu ăn, collagen, gelatin, phân bón hữu cơ... giúp giảm phát thải và phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh.
EU thiếu hụt cá thịt trắng, Trung Quốc tăng nhu cầu nhập khẩu, Mỹ giữ mức thuế chống bán phá giá ở mức hợp lý cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam, điều này cho thấy thị trường thế giới đang mở rộng cửa. Hiện cá tra Việt Nam có mặt tại hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, khẳng định vị thế toàn cầu.
Ở Đồng Tháp, bà Trần Thị Lành, ngư dân nuôi cá tra chia sẻ: "Doanh nghiệp đẩy mạnh bao tiêu sản phẩm mang tính ổn định thì ngư dân sẽ yên tâm nuôi hơn. Đường sá thông thoáng, chi phí sẽ giảm thấy rõ”. Tại Vĩnh Xương (An Giang), ông Nguyễn Văn Cường nói: "Sáp nhập xong thấy quản lý chặt hơn, quy trình rõ ràng. Làm đúng chuẩn là có doanh nghiệp ký hợp đồng liền, khỏi lo đầu ra".
Công nhân kiểm tra sản phẩm trước khi đóng thùng, xuất khẩu
Ở góc độ khoa học, Ths. Vương Học Vinh nhấn mạnh 3 trụ cột tương lai của ngành: nuôi sinh thái - chế biến sâu - liên kết chuỗi. Nếu thực hiện đồng bộ, ĐBSCL có thể vươn lên vị trí trung tâm cá thịt trắng hàng đầu thế giới trong thập niên tới.
Hạ tầng logistics đang là yếu tố tạo đột phá. Khi cao tốc hoàn thiện, thời gian vận chuyển từ ao nuôi đến nhà máy và cảng biển rút còn một nửa. Trung tâm logistics thủy sản tại Cần Thơ - Đồng Tháp - An Giang sẽ giảm đáng kể chi phí đầu vào, tăng tốc độ xuất khẩu. Theo tầm nhìn 2030, ĐBSCL đặt mục tiêu có 60% vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế. Nâng tỷ lệ chế biến sâu khoảng 40%. Kim ngạch cá tra trên 2,5 tỷ USD. Hình thành chuỗi logistics cao tốc - sông - biển - cảng liền mạch.
Sự chuyển mình của ngành cá tra sau sáp nhập không chỉ đến từ lợi thế tự nhiên hay kinh nghiệm sản xuất lâu đời, mà còn từ tư duy quản trị mới của ngành hàng và khả năng tổ chức không gian kinh tế quy mô vùng. Cá tra không còn là mặt hàng xuất khẩu đơn thuần, mà đang trở thành biểu tượng của đổi mới, thích ứng và khát vọng vươn ra thế giới của vùng châu thổ Cửu Long.
Khi chuỗi giá trị được củng cố, logistics thông suốt, doanh nghiệp và ngư dân liên kết mạnh mẽ, ĐBSCL hoàn toàn có thể xác lập vị thế trung tâm cá tra của thế giới trong thập niên tới, một vị trí xứng đáng với tiềm năng, lợi thế và khát vọng phát triển của vùng đất phương Nam.
Năm 2025, cơ cấu thị trường cá tra Việt Nam đã có sự chuyển dịch và cân bằng hơn. Các thị trường truyền thống như Trung Quốc và Mỹ không còn chiếm ưu thế tuyệt đối. Thay vào đó, các khu vực CPTPP, Nam Mỹ và ASEAN ngày càng đóng vai trò quan trọng. Sự chuyển dịch này phản ánh nỗ lực thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam vừa mở rộng thị trường, vừa đầu tư vào sản phẩm giá trị gia tăng, phù hợp với xu hướng tiêu dùng xanh và phát triển bền vững toàn cầu.
Với xu hướng hiện tại, các chuyên gia dự báo xuất khẩu cá tra quý IV/2025 sẽ phục hồi mạnh nhờ nhu cầu cuối năm và đơn hàng cho mùa Tết 2026. Tuy nhiên, giá nguyên liệu tăng có thể ảnh hưởng đến biên lợi nhuận, đòi hỏi doanh nghiệp tiếp tục tối ưu chi phí và duy trì chất lượng ổn định để giữ đà tăng trưởng.
NHẤT ĐỊNH ĐƯỢC