Ngành dừa cần chiến lược đầu tư bài bản, quy mô
- Tình hình xuất khẩu dừa từ đầu năm đến nay như thế nào, thưa ông?
- Quý II/2025, kim ngạch xuất khẩu dừa chững lại so với cùng kỳ 2024 do giá dừa tươi hạ nhiệt, nhu cầu tiêu thụ thấp và các doanh nghiệp gặp khó khăn về logistics. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp tạm dừng ký hợp đồng dài hạn, chờ đợi chính sách thuế từ Mỹ và phản ứng từ thị trường Trung Quốc. Giá nguyên liệu trong nước tăng cao, buộc doanh nghiệp phải nhập khẩu bổ sung, làm chậm tốc độ tăng trưởng.
Do đó, tính chung trong 6 tháng đầu năm, ngành dừa đạt kim ngạch xuất khẩu 489 triệu USD, trong đó dừa nguyên trái (khô và tươi) đạt 216 triệu USD, tăng 40% so với cùng kỳ 2024.
- Mới đây, Trung Quốc đã cấp 6 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói cho An Giang và có hiệu lực từ ngày 22/8/2025. Điều này có ý nghĩa như thế nào với ngành dừa?
- Hiện, có hơn 220 quốc gia có nhu cầu nhập khẩu dừa nhưng chỉ khoảng 179 quốc gia đủ năng lực xuất khẩu và Việt Nam đang nằm trong nhóm dẫn đầu. Riêng Trung Quốc mỗi năm nhập khẩu khoảng 5 tỷ trái dừa, trong đó dừa tươi chiếm tới 2,6 tỷ trái; từ năm 2024, dừa tươi Việt Nam chính thức được xuất khẩu sang Trung Quốc.
Trước đây nước ta có 35 tỉnh trồng dừa, sau sáp nhập còn 16 tỉnh, điều này giúp thuận lợi hơn trong quy hoạch vùng nguyên liệu và xây dựng chuỗi giá trị. Do đó, việc An Giang được cấp 6 mã số vùng trồng là minh chứng cho hướng đi đúng đắn, từng bước mở rộng thương hiệu dừa Việt Nam ra thế giới.
Giá trị dừa tươi Việt Nam qua từng thời điểm cũng đã tăng vượt bậc, từ mức chỉ 1.800 - 1.900 đồng/trái nay có thể đạt 95.000 đồng/trái tại các siêu thị lớn ở Thượng Hải, Bắc Kinh. Đây là tín hiệu tích cực cho mô hình nông nghiệp giá trị cao, ổn định và bền vững.
Dù mới phát triển mạnh trong 5 năm gần đây, dừa Việt Nam có lợi thế lớn với nguồn giống nguyên bản, không lai tạo công nghiệp, đa dạng chủng loại; riêng dừa tươi đã có tới 16 giống khác nhau. Đây là nền tảng để cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường toàn cầu.
- Vào thị trường Trung Quốc sau các nước khác, theo ông ngành dừa đang phải đối diện với những “nỗi lo” nào?
- Thực tế, trái dừa tươi của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất dần lợi thế trên trường quốc tế do thiếu quy hoạch vùng trồng và canh tác bài bản. Phần lớn nông dân vẫn trồng theo cảm tính, không tuân thủ quy chuẩn giống hay định hướng thị trường. Điều này khiến doanh nghiệp khó bảo đảm chất lượng đồng đều khi xuất khẩu số lượng lớn, đơn cử như một lô 5 container có thể gồm nhiều loại dừa khác nhau về kích cỡ, hương vị và chất lượng.
Trong khi ngành dừa khô đã hình thành chuỗi chế biến với sự tham gia của nhiều nhà máy, thì dừa tươi vẫn chưa có nhà đầu tư nào tham gia sâu, từ khâu giống, kỹ thuật canh tác đến bao tiêu sản phẩm. Điều này làm giảm sức hút với nhà đầu tư nước ngoài và khiến ngành dừa tươi chậm phát triển.
Hiện, dừa tươi Việt Nam chỉ xếp thứ 7, thứ 8 về thị phần tại Trung Quốc. Đáng chú ý, các thương hiệu quốc tế cũng đã tham gia xuất khẩu dừa tươi sang Trung Quốc, làm gia tăng áp lực cạnh tranh. Thời điểm này, ngành dừa cần một chiến lược đầu tư bài bản, quy mô.
Ảnh minh họa
Phải minh bạch từ gốc đến ngọn
- Ông dự báo như thế nào về kim ngạch xuất khẩu toàn ngành trong năm nay?
- Giá cả và kim ngạch xuất khẩu dừa năm nay ghi nhận nhiều biến động. Dừa khô nguyên liệu liên tục tăng giá và giữ ổn định, trong khi dừa tươi giảm mạnh trong hai tháng gần đây. Nguyên nhân chủ yếu do sản xuất manh mún, thiếu quy hoạch, chưa tuân thủ quy trình giống và kỹ thuật, dẫn đến chất lượng không đồng đều, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong thu mua và chế biến. Chuỗi cung ứng còn yếu, thiếu minh bạch, chưa chuẩn hóa theo yêu cầu thị trường.
Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, lượng dừa nguyên liệu nhập khẩu đã tăng mạnh, đạt gần 80 triệu USD. Đầu năm 2025, ngành dự báo kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 1,1 - 1,15 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với năm trước. Tuy nhiên, nếu loại trừ phần nguyên liệu nhập khẩu, tăng trưởng thực tế chỉ khoảng 10 - 15% trong cả năm 2025.
- Từ nay đến cuối năm, Hiệp hội sẽ hỗ trợ người dân trồng dừa, doanh nghiệp như thế nào?
- Hiệp hội đang triển khai các kế hoạch song song để hỗ trợ người nông dân. Trước tiên, sẽ tập trung xây dựng vùng nguyên liệu và chuỗi cung ứng ổn định cho các nhà máy chế biến xuất khẩu trong nước; hỗ trợ công cụ tín dụng cho người trồng dừa, để không ứng tiền trước của thương lái xuất khẩu thô. Giai đoạn thí điểm sẽ diễn ra từ tháng 9 đến 12/2025 tại Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cần Thơ. Sau khi tổng kết vào tháng 1/2026, mô hình sẽ được nhân rộng ra 16 tỉnh trồng dừa trọng điểm.
Bên cạnh đó, Hiệp hội sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thu mua dừa, ưu tiên nguồn cung cho các nhà máy chế biến trong nước, tạo đầu ra ổn định và giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Chúng tôi cũng chủ động đặt hàng các nhà khoa học, viện nghiên cứu tại đồng bằng sông Cửu Long và các đơn vị nghiên cứu hàng đầu cả nước phát triển các loại phân bón chuyên biệt cho cây dừa, cũng như các chế phẩm sinh học và thuốc bảo vệ thực vật sinh học thay thế hóa chất, bảo vệ cây trồng từ gốc. Đặt hàng các địa phương ban hành chương trình hành động riêng cho cây dừa, và phối hợp với các nhà quy hoạch xây dựng vùng trồng dừa tập trung, bài bản.
- Về phía doanh nghiệp, theo ông cần lưu ý điều gì?
- Hiện, giá dừa Việt Nam tại các thị trường lớn rất cao, khoảng 140.000 đồng/trái ở Mỹ, gần 190.000 đồng tại châu Âu, và 60.000 - 70.000 đồng ở Bắc Kinh. Sự chênh lệch không nằm ở chất lượng, mà ở mức độ minh bạch khi người tiêu dùng cao cấp đòi hỏi truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng, nhật ký canh tác, chứng nhận hữu cơ…
Muốn giữ được dư địa, tiềm năng với thị trường Trung Quốc nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, doanh nghiệp Việt cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain… để kiểm soát chất lượng từ gốc. Minh bạch không chỉ là tiêu chuẩn, mà là chìa khóa để nông sản Việt bước vào các thị trường lớn, xây dựng thương hiệu bền vững.
- Xin cảm ơn ông!
Hạnh Nhung